Bước tới nội dung

Face (album của Jimin)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Face
Bìa album có chữ "FACE" được viết bằng chữ hoa trên nền màu xám kim loại hình vuông gợn sóng
Bìa của Face
Album phòng thu của Jimin
Phát hành24 tháng 3 năm 2023 (2023-03-24)
Thu âmTháng 4 năm 2022 (2022-04)
Tháng 1 năm 2023 (2023-01)
Địa điểmSeoul, Hàn Quốc
Phòng thuBig Hit
Thể loạiPop, hip hop, R&B
Thời lượng19:54
Ngôn ngữ
  • Tiếng Hàn
  • Tiếng Anh
Hãng đĩaBig Hit
Đạo diễnOui Kim
Sản xuấtPdogg, Ghstloop, Evan
Đánh giá chuyên môn
Đánh giá chuyên môn
Đĩa đơn từ Face
  1. "Set Me Free Pt. 2"
    Phát hành: 17 tháng 3 năm 2023 (2023-03-17)
  2. "Like Crazy"
    Phát hành: 24 tháng 3 năm 2023 (2023-03-24)

Face (viết cách điệu là FACE) là album phòng thu[A] đầu tay của ca sĩ người Hàn Quốc đồng thời là thành viên của nhóm nhạc BTS Jimin. Được phát hành vào ngày 24 tháng 3 năm 2023 bởi hãng Big Hit Music. Album có tổng cộng 5 bài hát, bao gồm một đĩa đơn chủ đạo mang tên "Set Me Free Pt. 2" và video âm nhạc được đính kèm đã được phát hành vào ngày 17 tháng 3 năm 2023. Đĩa đơn thứ hai mang tên "Like Crazy" và video âm nhạc của ca khúc đã được phát hành cùng ngày với ngày phát hành album. Là một album nhạc pop có thêm yếu tố hip hopR&B được chịu ảnh hưởng từ các thể loại như nhạc trap, soul, synth-popballad trữ tình. Kết cấu và tựa đề của album được lấy cảm hứng từ những tác động cảm xúc của đại dịch COVID-19 đối với Jimin đã đúc kết được trong thời gian thu âm, với ca từ thể hiện về sự cô đơn, những bài hát trong album hầu như đều khai thác về các chủ đề về sự tự do và nỗi vật lộn với bản thân.[2]

Album đã ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Circle Album Chart tại Hàn Quốc và đã phá kỷ lục doanh số bán hàng trong ngày đầu tiên phát hành với hơn 1 triệu bản đã được bán ra và hơn 1,3 triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành. Tổng cộng album đã bán được khoảng 1,45 triệu bản đã được bán ra, đưa Jimin trở thành nghệ sĩ solo đầu tiên trong lịch sử Bảng xếp hạng Hanteo đạt được thành tích này. Album đã lọt vào top 10 tại Áo, Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Litva, Thụy SĩNew Zealand khi nó cũng đã dẫn đầu bảng xếp hạng Oricon Albums, Digital Albums của Oricon và bảng xếp hạng Hot Albums của Billboard Japan tại Nhật Bản. Jimin lần đàu tiên đạt được cả 2 kỷ lục là nghệ sĩ solo đầu tiên trong lịch sử Bảng xếp hạng Hanteo đạt được doanh số 1 triệu bản trong ngày đầu tiên phát hành tại Hàn Quốc và ra mắt ở vị trí số một trên cả hai bảng xếp hạng album Oricon vào năm 2023. Tại Hoa Kỳ, album đã ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200, trở thành album có thứ hạng cao nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc trong lịch sử bảng xếp hạng Billboard.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong lúc đại dịch COVID-19 vẫn còn đang hoành hành, Jimin đã trải qua nhiều sự nghi ngờ về bản thân và mục đích để trở thành một nghệ sĩ, điều này đã khiến anh phải cố gắng đấu tranh về mặt cảm xúc. Sau khi chuyến lưu diễn Permission to Dance on Stage tại Las Vegas kết thúc, Jimin đã nhiều lần tâm sự với những thành viên trong ban nhạc BTS, nói về những gì mà anh đã trải qua, nghĩ rằng anh là người duy nhất trong ban nhạc,[3] sau đó, họ đã khuyến khích anh hãy thử chuyển những suy nghĩ và cảm xúc của mình thành âm nhạc, điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho anh ấy cũng như là một chất xúc tác để anh bắt đầu tích cực làm việc cho album solo của mình.[4] Sau khi quay trở về Hàn Quốc, Jimin đã gặp gỡ các nhà sản xuất từ công ty của mình và đã bắt đầu thực hiện dự án vào đầu năm 2022.[3] Lời khuyên từ các thành viên BTS cũng đã giúp đỡ cho nam ca sĩ phần nào trong quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến các quyết định về hướng đi cuối cùng của album, điều mà anh đã từng nói là sẽ "yên tâm" cho anh.[4] Trong một cuộc phỏng vấn với Nikkei Asia, "những tình huống khó xử sâu sắc về âm nhạc" mà Jimin đã phải đối mặt trong suốt quá trình sáng tác đã khiến anh nhận ra rằng anh đã dựa dẫm vào các thành viên cùng nhóm nhiều đến thế nào trong một số việc[4] và đã giúp anh ấy "giải quyết hoàn toàn cái cảm giác lạc lõng và đã vượt qua tất cả những vấn đề đó"[3]

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]
"[Tôi đã từng nghĩ] rằng mình vẫn ổn. Tôi vẫn đang hạnh phúc, vẫn chỉ đang tận hưởng mọi thứ. Nhưng khi nhìn lại, tôi đã nhận ra rằng đó không phải là những cảm xúc duy nhất mà [tôi có]. Sau khi nhận ra được điều đó, ban đầu tôi chỉ nghĩ rằng mình sẽ vượt qua được [những cảm xúc này]. Tôi nghĩ rằng tôi đã học được cách trở thành một người trưởng thành... Tôi thực sự không giỏi trong việc vòng vo hay là nói gián tiếp, và điều đó cũng giống với những lời bài hát của tôi. Tôi chỉ đang viết theo cảm xúc như chúng vốn có, chính xác cái cảm giác của tôi từ hai năm trước, và tất cả những cảm xúc mà tôi cảm thấy trong mọi tình huống [tại thời điểm đó] chỉ cần nghe nhạc là bạn sẽ hiểu ngay được lời bài hát đó.

Jimin và những ảnh hưởng cảm xúc đằng sau album Face, Rolling Stone[3]

Về mặt chủ đề, album "đi sâu vào câu chuyện của Jimin về việc phải đối mặt với con người thật của mình và tạo ra một bước tiến mới với tư cách là một nghệ sĩ".[5] Album cũng mô tả những cảm xúc mà anh đã trải qua trong vài năm qua từ cơn đại dịch toàn cầu.[6] Đồ họa lịch trình quảng cáo cho album cũng có những ghi chú liên quan như "Vòng tròn cộng hưởng" hay một "Sự phản chiếu của những tâm hồn dễ bị tổn thương và những vết thương chưa lành".[7] Về mặt âm nhạc, nó bao gồm nhiều thể loại, bao gồm pop, hip hopR&B.[8]

Ca khúc đầu tiên, "Face-Off", là một bài hát chứa cả hai thể loại nhạc trap và nhạc soul[3] bài hát được miêu tả là nó rất dữ dội và nổi loạn và nó chứa rất nhiều sự tức giận[8]. Ca khúc nói về việc "cố gắng tìm lại được khả năng phục hồi sau cái cảm giác bị nghi ngờ và thất vọng".[9][3] Bài hát mở đầu bằng một giai điệu gợi nhớ đến một âm nhạc lễ hội, không có ý nghĩa cụ thể nào đối với bản thân ca khúc, nhưng nó đã được quyết định trong quá trình sản xuất sau khi các nhà sản xuất đề nghị với Jimin rằng "sẽ hơi nghịch lý hoặc mỉa mai" khi bắt đầu bài hát bằng một thứ "hoàn toàn trái ngược với phần còn lại của sự rung cảm đó".[3]

Ca khúc thứ hai là "Interlude: Dive", một bài hát không lời với nhạc cụ "mơ màng"[8] có âm thanh của nước và có cả tiếng Jimin đang nói chuyện trên sân khấu. Nam ca sĩ cảm thấy "thật tuyệt nếu có một thứ gì đó ở giữa" để kết nối giữa "Face-Off" và "Like Crazy" trong danh sách ca khúc nên phần dạo đầu cũng đã được tạo ra. Từ âm thanh "thở hổn hển" và tiếng chạy đều được nghe thấy trên đường đua cũng là do chính Jimin chạy xung quanh, anh ghi âm lại bằng điện thoại của mình, vì anh muốn "tạo cảm giác rằng anh đang lạc lối và lang thang".[3]

Ca khúc thứ ba và cũng là đĩa đơn thứ hai của album, "Like Crazy", là một bản synth-pop[8] được lấy cảm hứng từ bộ phim cùng tên năm 2011—đây là một trong những bộ phim yêu thích của Jimin—bộ phim mà anh biết lần đầu tiên qua một video kết hợp trên YouTube. Trong một cuộc phỏng vấn với Rolling Stone, Jimin đã nói rằng bộ phim đột nhiên xuất hiện trong tâm trí của anh khi đang thảo luận về ca khúc chính của album và cũng vì anh cảm thấy "nó sẽ rất phù hợp với thể loại bài hát mà [chúng tôi muốn làm]", vì vậy anh đã xem lại bộ phim và rồi đã đưa ra "những điểm truyền cảm hứng khác nhau" vào lời bài hát. Anh giải thích thêm rằng trong khi ca khúc có một cảm giác "mơ màng say sưa" và "cảm thấy hạnh phúc... thì đằng sau đó cũng có sự cô đơn",[3] với những câu như "Tôi thà lạc trong ánh đèn / Tôi mất trí"[a] và "Tôi muốn ở trong giấc mơ này / Đừng cứu tôi"[b].[9] Cũng có thể nghe thấy đoạn trích từ lời thoại của bộ phim, về "lời thì thầm từ những cặp đôi yêu nhau đầy sợ hãi",[9] ở phần đầu và phần cuối của bài hát.[3]

Ca khúc thứ tư, "Alone", là một bản pop ballad "R&B u sầu"[3][8] được hát trong một quãng giọng trầm,[9] bài hát mang đến cái nhìn thoáng qua về trải nghiệm của anh, người đã từng trải qua đại dịch. Một nỗi "sợ hãi, đầy nghi ngờ và thất vọng" [9] ca khúc đồng thời cũng truyền tải về sự cô lập cay đắng [3] ca khúc sử dụng một "hiệu ứng auto-tune nhằm để nhấn mạnh những mô tả về cảm xúc một cách ngắn mạch".[10]

Ca khúc thứ năm và cũng là đĩa đơn đầu tiên của album, Set Me Free Pt. 2 kể lại về câu chuyện mà anh đã "quyết tâm, giải thoát bản thân khỏi những cảm xúc đa dạng ẩn sâu trong con người anh" (ngụ ý là Jimin)[5]—nỗi đau, nỗi buồn, sự trống rỗng[6]—với ca từ "quyết đoán" về "tự do và tiến về phía trước".[7] Đây cũng là bài hát đầu tiên mà Jimin đọc rap,[6] thể hiện "một [ý tưởng] về sự quyết tâm, sự đam mê và vượt qua".[11] Về mặt âm nhạc, ca khúc có một dạng "big horn"; một dàn hợp xướng có một bản thu âm mà Jimin đã phải bay đến Hoa Kỳ để giám sát; với nhịp điệu "nghiêm túc"[7];"mạnh mẽ"[12]; cùng với beat "hip-hop nhanh nhẹn"; và một giọng hát Auto-Tune.[11] Album kết thúc với ca khúc thứ sáu là phiên bản tiếng Anh của ca khúc thứ ba "Like Crazy".[9]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 1 năm 2023, các phương tiện truyền thông của Hàn Quốc bắt đầu đưa tin về màn ra mắt solo chính thức của Jimin.[13] Trong một buổi phát trực tiếp vào ngày 10 tháng 2, Jimin đã xác nhận rằng anh đang thực hiện một album và nó sẽ được phát hành vào tháng 3.[14] Ngay ngày hôm sau, trang báo Star News đã đưa tin rằng Jimin sẽ xuất hiện trên nhiều chương trình âm nhạc hơn để quảng bá cho album và biểu diễn cho hai bài hát.[15] Big Hit Music cũng đã chính thức công bố về album thông qua một thông báo trên Weverse vào ngày 21 tháng 2. Một video dài khoảng 35 giây "có nhạc nền xung quanh và một loạt các giọt nước tạo ra những gợn sóng trên mặt nước và cuối cùng tạo thành tiêu đề của album" ngay sau đó.[1] Lịch trình về việc quảng bá và nêu chi tiết các kế hoạch khác nhau cho việc giới thiệu về album đã được chia sẻ vào ngày 22 tháng 2[16] và thời gian đặt trước cho album cũng đã được mở vào cuối ngày hôm đó.[1]

Danh sách ca khúc cũng đã được công bố lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 2 năm 2023. Album có bao gồm sáu bài hát, trong đó Jimin được ghi là đồng sáng tác cho năm ca khúc trong khi thành viên cùng nhóm RM được ghi là sáng tác cho ba ca khúc: ca khúc thứ nhất "Face-Off", ca khúc thứ ba "Like Crazy" và ca khúc thứ sáu là phiên bản tiếng Anh của "Like Crazy".[17] Cùng ngày, một đoạn video ngắn có cảnh quay hậu trường của Jimin trong quá trình sáng tạo cho album đã được đăng tải lên YouTube ngay sau đó.[5] Vào ngày 7 tháng 3, Big Hit đã tung ra một bức ảnh với "tâm trạng" đen trắng, bức ảnh cho thấy Jimin đang ở trong một căn phòng gần như là trống rỗng cùng với một vài món đồ nội thất ở phía trên được phủ bằng một tầm vải trắng bao phủ trên toàn bộ sàn nhà, Jimin đang quay lưng về phía máy ảnh như thể như anh sắp rời đi, hình bóng của Jimin đã được chiếu sáng bởi ánh sáng từ ô cửa.[18][19] Hai bộ ảnh concept lần lượt được thực hiện vào ngày 9 và ngày 10 tháng 3. Các bức ảnh của phiên bản "Hardware" có một hình ảnh nam cho thấy Jimin đang mặc áo khoác da màu đen nhìn thẳng vào máy ảnh, tiếp theo là cận cảnh khuôn mặt được trang trí bằng gai và đinh bạc trên lông mày, gò má và một chiếc khuyên môi nằm ở môi dưới, cơ thể của Jimin "dường như đang cởi trần" với những chiếc gai xếp thành tầng xuống một ở bên cổ và ngang qua xương đòn.[20] Các bức ảnh từ phiên bản "Software" hầu như mang một cách tương phản và trực quan hơn so với những bức ảnh trước, trong phiên bản này, Jimin đã thể hiện một "khí chất tự nhiên và thuần khiết" hơn, anh đã mặc đồ màu trắng và ngồi trên một chiếc ghế dài màu trắng trong phòng giống với bức ảnh tâm trạng. Có một bức ảnh chụp cận cảnh kèm theo cho thấy một vài vết sẹo ở bên phải khuôn mặt của Jimin.[21]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn "Set Me Free Pt. 2" đã được phát hành trước album vào ngày 17 tháng 3 năm 2023. Tiêu đề của ca khúc có ngụ ý giống với ca khúc "Set Me Free" trong mixtape D-2 (2020) của Suga, thành viên cùng ban nhạc BTS. Mặc dù ca khúc của Jimin không hề liên quan đến ca khúc của Suga, nhưng trong một cuộc phỏng vấn với Consequence, được xuất bản cùng ngày với ngày phát hành đĩa đơn, Jimin đã nói rằng "chúng tôi không hề cố gắng chia thành phần một hay phần hai. Nhưng vì hóa ra bài hát của tôi nói về sự tự do và tiến về phía trước, còn bài hát của SUGA thì nói về một số câu chuyện đã xảy ra trước đó, nên tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu bài hát của tôi là phần tiếp theo cho ca khúc của SUGA". Bài hát đã được chọn là đĩa đơn đầu tiên trong album bởi vì do cường độ thực hiện và việc Jimin đã ra mắt solo "một cách đầy ấn tượng". Theo đó, video âm nhạc đi kèm đều tập trung nhiều vào khía cạnh trình diễn của ca khúc và cả "sự rung cảm mãnh liệt" của nó.[22][23][7] Trong video, được đạo diễn bởi Oui Kim,[11], Jimin đóng vai trò là "người trung tâm chỉ huy một thói quen vũ đạo phức tạp", anh "di chuyển trên màn hình cùng với một nhóm vũ công, tất cả đều đồng loạt biểu diễn khi căn phòng đang lóe lên những làn sóng ánh sáng".[12] Anh đã mô tả bài hát có "năng lượng của một tia sáng chiếu vào trong bóng tối... Nếu tôi phải nói một màu sắc cụ thể, tôi sẽ nói đó là màu đen và trắng."[7] Ca khúc đã lọt vào vị trí thứ 30 trên bảng xếp hạng UK Singles Chart, trở thành đĩa đơn có thứ hạng cao nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc trong lịch sử bảng xếp hạng; Jimin đã vượt qua kỷ lục trước đó đã được thiết lập bởi thành viên cùng nhóm J-Hope, người đã ra mắt ở vị trí thứ 37 với ca khúc "On the Street.[24][25] Bài hát cũng đã giành vị trí quán quân trong tập ngày 23 tháng 3 của chương trình M Countdown, đánh bại cả ca khúc "Set Me Free" của Twice, mặc dù Jimin vẫn chưa bắt đầu quảng bá trên các chương trình âm nhạc trong nước.[26]

"Like Crazy" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai của album vào ngày 24 tháng 3. [27] Video âm nhạc của ca khúc, cũng do Oui Kim đạo diễn, mở đầu bằng một đoạn hội thoại của Jennifer Lawrence trích từ bộ phim Yêu Dại Khờ năm 2011, đoạn hội thoại nói rằng "Em nghĩ chúng ta có thể sẽ tồn tại mãi mãi" trong khi Jimin được nhìn thấy là đang "đứng trong vòng xoáy ánh sáng xanh trong một quán hộp đêm đông đúc" khi đồng diễn của Lawrence là Anton Yelchin trả lời rằng "Nhưng anh lại sợ rằng mọi thứ sẽ biến mất". Lawrence nói với Yelchin rằng "Chỉ cần tin tưởng em" trong khi máy quay đang phóng to cảnh Jimin "đang tìm kiếm sự cô đơn trong nhà bếp và bắt đầu cất lên, 'Cô ấy đang nói / Em yêu, hãy đến và theo anh / Không có điều gì tồi tệ ở đây đêm nay'"[c]. Sau đó, một bàn tay vô hình đã nắm lấy và kéo anh vào một sàn nhảy đông người của một câu lạc bộ hộp đêm, nơi anh được cho là đang đi chậm rãi qua những người dự tiệc, chụp ảnh và lướt qua đám đông; cuối cùng phân cảnh kết thúc ở một "hành lang ma quái" với những bức tường rỉ ra một chất nhờn "đen đặc". Phần còn lại của hình ảnh dao động giữa việc Jimin đang tiệc tùng và vẫn đang cất tiếng hát trong một "nhà vệ sinh kỳ dị, giống như Transformer", và phân cảnh kết thúc với cảnh anh lại ở bàn bếp một lần nữa, bàn tay phải của anh bây giờ cũng được bao phủ bởi một "chất nhờn bí ẩn" và che camera đi.[28][29][30] Bản phối lại cho đĩa đơn là bản "Deep House" và bản "UK Garage" cũng đã được phát hành vào ngày 26 tháng 3.[31] "Like Crazy" ra mắt ở vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng UK Singles Chart, vượt qua kỷ lục do ca khúc "Set Me Free" đã thiết lập một tuần trước đó để trở thành đĩa đơn ra mắt cao nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc trong lịch sử bảng xếp hạng OCC; anh là thành viên duy nhất của BTS lọt vào top 10.[32]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Jimin đã được làm khách mời trong tập ngày 23 tháng 3 của chương trình trò chuyện The Tonight Show Starring Jimmy Fallon cho một cuộc phỏng vấn sau khi phát hành album Face.[33] Vào ngày hôm sau anh đã xuất hiện trên chương trình radio của Big Hit trên kênh Hybe Labels và trên nền tảng Melon Station để thảo luận về album và các chủ đề khác với người hâm mộ'; phần một của tập đã được phát sóng một giờ sau khi album ra mắt, trong khi phần hai đã được phát sóng vào ngày 25 tháng 3. Anh cũng đã tham gia phân đoạn "Ask Me Anything" của Melon Spotlight; nền tảng đã xuất bản thêm những bức ảnh độc quyền đến từ sự kiện này.[34] Vào buổi tối cùng ngày, Jimin đã xuất hiện trên chương trình The Tonight Show một lần nữa, với tư cách là khách mời âm nhạc trong tập ngày 24 tháng 3 của chương trình, và anh đã có một buổi biểu diễn cho ca khúc "Like Crazy" ra mắt truyền hình Hoa Kỳ.[35]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic84/100[36]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[37]
NME[38]
Consequence83/100[36]
The Quietus80/100[36]
Rolling Stone80/100[10]

Album "Face" nhìn chung đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc khi phát hành, họ đồng ý một điều rằng Jimin đã thành công trong công việc tạo ra một sự khác biệt về mặt sáng tạo và có tính phong cách nhiều hơn so với các tác phẩm trước đó, đặc biệt là những tác phẩm, những album của BTS. Sự tham gia hoàn toàn của Jimin vào dự án, đặc biệt là về phần sáng tác cũng là một điểm đáng để khen ngợi. Nhưng cũng có những lời chỉ trích nhỏ nhắm vào việc sử dụng quá nhiều Auto-Tune vào trong đĩa đơn chính của album, cũng như là sự ngắn gọn tổng thể của dự án. Trên Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album đã nhận được 84 điểm, dựa trên 5 bài đánh giá cũng đã đủ để cho thấy về "sự hoan nghênh toàn cầu" của album.[36]

Rhian Daly từ tờ báo NME đã xếp hạng 4 sao trên 5 sao cho album, mô tả nó là "một bộ phim đối mặt với thực tế" có thể "nắm bắt được dòng cảm xúc phức tạp đi kèm với điều đó". Cô đồng thời nói thêm rằng ca khúc "Face-off" và "Alone" chính là hai điểm nổi bật của album, nhưng cô cảm thấy rằng ca khúc "Set Me Free Pt. 2" "hơi lạc đề" do "các lớp auto-tune dày đặc" vượt ra ngoài phong cách vốn mang tính biểu tượng và trở nên ghê rợn. Daly kết luận rằng, mặc dù album "FACE" có thể không hoàn hảo nhưng ngay cả trong những bước đi sai lầm, nó cũng phản ánh sự hỗn loạn của cuộc sống hiện đại và đặc biệt là trong vài năm gần đây. Nếu nhiệm vụ của Jimin trong bản thu âm này là thể hiện bản thân một cách sáng tạo và chắt lọc những sự bất hòa đó trong những bài hát này, thì đó chính là nhiệm vụ mà anh ấy đã hoàn thành".[38]

India Roby từ tạp chí Nylon đã gọi Face chính là "tiếng hét trung thực vào khoảng không"—so với "tiếng thì thầm sôi sục" trong các dự án trước đây của Jimin—điều đó đã "lột bỏ được các lớp của [Jimin] và giải phóng toàn bộ tiềm năng của anh ấy ngoài cái tên BTS". "Bất chấp sự u ám và hỗn loạn" có mặt trong album, và cả việc Jimin đã "vật lộn với sự dày vò bản thân", Roby cho rằng đó cuối cùng là một dự án nói về "sự kiên cường và chiến thắng" đã cho Jimin một cơ hội thể hiện "sự sáng tạo chưa từng thấy" khi anh ấy "bày tỏ sự mong muốn phát triển vượt ra ngoài danh hiệu BTS" và để cho anh ấy "ở trên đỉnh cao của một thứ gì đó thậm chí còn vĩ đại hơn trong tương lai."[39]

Trong bài đánh giá của trên Rolling Stone, nhà phê bình âm nhạc Maura Johnston, đã mô tả album Face là một album "mang tính khiêu khích nhưng rất hấp dẫn" đánh dấu bước ngoặt đầu tiên của Jimin hướng tới "sự phá vỡ ra khỏi mọi khuôn khổ mà trong đó anh ấy có thể được đặt." Cô đã chọn "Like Crazy" làm tâm điểm của album, vì cái cách mà nó thể hiện, một "phong cách hát uyển chuyển" của Jimin và "Set Me Free Pt. 2" chính là "ca khúc hấp dẫn nhất", với "sự pha trộn tạp âm giữa kèn đồng và synth kết hợp với hiệu ứng auto-tune", một "điệp khúc khăng khăng" và giọng hát của Jimin "biến thành một tiếng còi kêu gọi sự giải thoát của chính mình". Nhìn chung, Johnston đã tóm tắt album là một "sự thể hiện đầy hấp dẫn về thế mạnh nhạc pop của ca sĩ kiêm vũ công có giọng hát mượt mà".[10] Veronica A. Bastardo từ tạp chí âm nhạc The Quietus đã chấm cho album này 80 trên 100 điểm. Bastardo đã cho rằng Face vốn từ lâu đã được "suy nghĩ một cách kỹ lưỡng" mặc dù khoảng thời gian phát hành của album là rất ngắn, người cũng đã nhận xét rằng hiện tại Jimin "với tư cách là một nghệ sĩ độc tấu mang đến với âm thanh bất ngờ cho một chất giọng cao phản nam mang tính đối lập của Jimin "rất không giống với những bản ballad mà anh đặc biệt được biết đến trước đây. Người cũng nhận xét là rất thích cái "cách tiếp cận thanh lịch cùng với hơi gợi cảm đối với các loại nhạc pop, hip-hop" của những bản thu âm và cái cách mà nó đã kết hợp với các thể loại "lo-fi synthwave của những năm thập niên 1980 và các khía cạnh kinh ngạc nhất của một số hành vi bẩn thỉu rồi lại chuyển sang thể loại nhạc phúc âm, guitar điện tử và sự biến dạng kỳ ảo để có thể truyền tải được những thông điệp từ âm nhạc của họ". Người cũng lưu ý một số điều như sự tập trung nặng nề vào các loại nhạc "hip hop và nhạc trap bị bóp méo". Bastardo đã kết thúc bài đánh giá của mình bằng một câu nhận định rằng, Face là một "lời nhắc nhở nối về các nghệ sĩ nhạc K-pop không phải là một dạng âm thanh vuông vắn, mà là một phong cách để có thể kết hợp các nghệ thuật với nhau theo cách của riêng họ".[40]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Hanteo Chart, album Face đã bán được khoảng 1.573.886 bản[d] trong ngày đầu tiên ra mắt.[41] Jimin đã trở thành nghệ sĩ solo đầu tiên trong lịch sử Bảng xếp hạng Hanteo vượt qua một triệu bản vào ngày phát hành và là nghệ sĩ solo thứ tư của một nhóm chỉ đứng sau Seo Tai-ji, Byun Baek-hyunJin (thành viên cùng nhóm BTS), có một album bán được hơn một triệu bản.[42] Album đã bán được hơn 1,45 triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành, phá vỡ kỷ lục về doanh số trong tuần đầu tiên phát hành cao nhất mọi thời đại của một nghệ sĩ solo;[43] Lim Young-woong trước đây đã giữ cả hai kỷ lục về doanh số bán hàng với album phòng thu đầu tay Im Hero (2022), album đã bán được hơn 940.000 bản trong ngày đầu tiên phát hành và hơn 1,1 triệu bản trong tuần đầu tiên.[44] Album Face đã mang về cho Jimin vị trí quán quân đầu tiên trên bảng xếp hạng Circle Album Chart, trên số tuần 12 cho khoảng thời gian từ ngày 19–25 tháng 3 năm 2023.[45]

Tại Nhật Bản, album ra mắt tại vị trí số một trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart, với 222.120 bản được bán ra vào ngày đầu tiên phát hành.[46] Tất cả sáu bài hát trong album đều lọt vào top 10 trong Bảng xếp hạng Digital Singles; lần lượt từ ca khúc "Like Crazy" ra mắt ở vị trí số một; "Set Me Free Pt. 2" trở lại ở vị trí thứ ba; "Face-Off", Like Crazy" (bản tiếng Anh), "Alone" và "Interlude: Dive" lần lượt ra mắt ở vị trí thứ 4 đến thứ 7.[47] Album sau đó đã dẫn đầu số phát hành hàng tuần của cả hai bảng xếp hạng Oricon Albums và Digital Albums,[48][49] cũng như là bảng xếp hạng Hot Albums của Billboard Japan.[50] Theo Oricon, album Face đã đạt được doanh số trong tuần đầu tiên ra mắt lớn nhất cho một nghệ sĩ solo vào năm 2023,[51] với tổng cộng hơn 225.000 bản đã được bán trong khoảng thời gian từ ngày 20–26 tháng 3 năm 2023.[48] Trong số đó có khoảng 224.870 bản vật lí cùng với 5.264 bản kỹ thuật số đã được bán ra trong cùng khoảng thời gian đó.[49] Face là album đầu tiên của một nghệ sĩ solo ra mắt ở vị trí quán quân trên cả hai bảng xếp hạng vào năm 2023.[51]

Face đã ra mắt ở vị trí thứ hai tại Hoa Kỳ trên bảng xếp hạng Billboard 200 vào ngày 8 tháng 4 năm 2023, đưa Jimin trở thành nghệ sĩ đầu tiên ra mắt ở vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng với dự án đầu tay chỉ đứng sau album Sour của Olivia Rodrigo ra mắt ở vị trí quán quân trong năm 2021. Album đã đạt kỷ lục doanh số cao thứ hai trong tuần đầu tiên trong năm 2023 chỉ đứng sau album phòng thu thứ ba của Morgan Wallen One Thing at a Time nắm giữ kỷ lục doanh số trong tuần đầu tiên lớn nhất năm 2023 với hơn 501.000 đơn vị và 164.000 đơn vị album tương đương được bán ra. Con số kỷ lục từ album Face bao gồm hơn 124.000 doanh số bán album thuần túy, đánh dấu tuần bán ra lớn nhất cho một album solo và lớn thứ ba về tổng thể trong năm 2023; Hơn 13.500 lượt phát trực tuyến cho đơn vị album tương đương (khoảng 19,51 triệu lượt phát trực tuyến chính thức theo yêu cầu của bài hát); và hơn 26.500 đơn vị album tương đương (TEA)[e]—chủ yếu đến từ các doanh số bán hàng đến từ ca khúc "Like Crazy"—con số TEA lớn nhất trong năm 2023 đối với bất kỳ album nào với tuần bán hàng TEA lớn thứ hai nói chung, chỉ đứng sau album Midnights của Taylor Swift khi album đã kiếm được khoảng 34.000 đơn vị TEA vào tháng 11 năm 2022.[52] Jimin đã trở thành nghệ sĩ solo Hàn Quốc có thứ hạng cao nhất mọi thời đại trên Billboard 200, vượt qua kỷ lục do RM lập trước đó, người đã đạt vị trí thứ 3 với album Indigo vào tháng 12 năm 2022.[53] Trong tuần thứ 2 phát hành, album đã bán được thêm hơn 20.000 bản.[54]

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách ca khúc cho album Face
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."Face-Off"
Pdogg, Ghstloop3:49
2."Interlude: Dive"
  • Evan
  • Ghstloop
  • Pdogg
  • Evan
  • Ghstloop
  • Pdogg
2:10
3."Like Crazy"
  • Pdogg
  • Blvsh
  • Chris James
  • Ghstloop
  • Jimin
  • RM
  • Evan
  • Pdogg
  • Ghstloop
3:32
4."Alone"
  • Pdogg
  • Jimin
  • Ghstloop
  • Evan
Pdogg3:31
5."Set Me Free Pt. 2"
  • Ghstloop
  • Pdogg
  • Jimin
  • Supreme Boi
  • Pdogg
  • Ghstloop
3:20
6."Like Crazy" (English version)
  • Pdogg
  • Blvsh
  • Chris James
  • Ghstloop
  • Jimin
  • RM
  • Evan
  • Pdogg
  • Ghstloop
3:32
Tổng thời lượng:19:54
Ca khúc ẩn trong album vật lý
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
7."Letter" (Tiếng Hàn편지)
  • Pdogg
  • Jimin
  • Ghstloop
  • Evan
Pdogg3:50

Ghi chú

  • "Like Crazy" (bản tiếng Anh) trong album thực chất là một bản nhạc dài tận 10 phút bao gồm khoảng trống 2 phút 45 giây sau khi kết thúc bài hát và sau đó chính là ca khúc ẩn "Letter" được bắt đầu ở mốc 6:13, ca khúc có giọng hát nền của thành viên Jungkook (BTS).[55]

Đội ngũ thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ tham gia sản xuất album Face đều dựa trên phần bìa ghi chú.[56]

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận và doanh số cho album Face
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Nhật Bản (RIAJ)[85] Bạch kim 250.000^
Hàn Quốc 1.573.886^[86]

^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Lịch sử phát hành cho Face
Quốc gia Ngày phát hành Định dạng Phiên bản Hãng đĩa Nguồn
Toàn cầu 24 tháng 3 năm 2023
  • Bản thường
  • Weverse US Exclusive
  • Weverse Album
Big Hit [87]
Nhật Bản 25 tháng 3 năm 2023 [88]
Hoa Kỳ 24 tháng 3 năm 2023
  • Bản thường
  • Weverse US Exclusive
[89]
10 tháng 4 năm 2023
  • Tải kỹ thuật số
  • phát trực tuyến
Weverse Album

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Theo truyền thống, một bản phát hành có từ 4 đến 6 bản nhạc được coi là đĩa mở rộng (EP). Big Hit Music đã quảng bá album Face như một album trước khi phát hành và sau đó. Nguồn thứ cấp tiếng Hàn và tiếng Anh, bao gồm cả Newsen, Billboard,[1] v.v, cũng coi Face là một album hơn là EP. Bài viết này theo phần lớn các nguồn và sử dụng tên album trên EP.
  1. ^ Lời gốc: "I'd rather be / Lost in the lights / I'm outta my mind"
  2. ^ Lời gốc: "I wanna stay in this dream / Don't save me"
  3. ^ Lời gốc: "She's saying / Baby, don't think about it / There's not a bad thing here tonight"
  4. ^ Trong số đó có 1.256.308 bản tiêu chuẩn và 317.578 bản Weverse Album
  5. ^ TEA được tính bằng cách cộng tất cả doanh số bán bài hát từ một album và chia cho 10.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Gil Kaufman (21 tháng 2 năm 2023). “BTS' Jimin Announces First Solo Album, 'FACE' [BTS Jimin Công Bố Album Solo Đầu Tay, 'FACE']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2023.
  2. ^ Michelle Hyun Kim (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin Is Ready to Show the World Who He's Become” [Jimin Đã Sẵn sàng Để Cho Cả Thế giới Thấy Anh Trở thành Ai]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l Michelle Hyun Kim (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin Is Ready to Show the World Who He's Become” [Jimin Đã Sẵn sàng Để Cho Cả Thế giới Thấy Anh Trở thành Ai]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  4. ^ a b c Mariko Hirano (24 tháng 3 năm 2023). “For BTS's Jimin, music transcends language barriers” [Đối với Jimin, âm nhạc có thể vượt qua rào cản ngôn ngữ] (bằng tiếng Anh). Nikkei Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  5. ^ a b c Larisha Paul (23 tháng 2 năm 2023). “Jimin Shares 'Face' Tracklist — Featuring a Song Writing Collab With His BTS Bandmate RM” [Jimin Chia sẻ Danh sách Ca khúc 'Face' - Có RM Của BTS Cùng Hợp tác Sáng tác]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  6. ^ a b c Ji-won Choi (17 tháng 3 năm 2023). “BTS' Jimin to pre-release hip-hop song 'Set Me Free Pt. 2' [Jimin sẽ phát hành bài hát hip-hop 'Set Me Free Pt. 2' trước album] (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2023.
  7. ^ a b c d e Mary Siroky (17 tháng 3 năm 2023). “Jimin of BTS Breaks Down His "Very Intense" New Single "Set Me Free Pt.2": Exclusive” [Thành Viên BTS Jimin Đã Phá Vỡ Đĩa Đơn Mới "Rất Mãnh Liệt" "Set Me Free Pt.2": Độc quyền]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2023.
  8. ^ a b c d e Wan-sik Moon (24 tháng 3 năm 2023). '아티스트 지민'의 새로운 시작..방탄소년단 지민, 'FACE' 발표” [Một khởi đầu mới cho 'Jimin'... album 'FACE' đã được công bố] (bằng tiếng Hàn). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  9. ^ a b c d e f Mary Siroky (24 tháng 3 năm 2023). “On FACE, Jimin Sets Himself Free: Review” [Trên album FACE, Jimin Tự Giải Thoát: Đánh Giá]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  10. ^ a b c Maura Johnston (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin Shows Off His Pop Strengths, And Explores Some Moods, On 'FACE' [Jimin Thể Hiện Thế Mạnh Nhạc Pop Và Khám Phá Một Số Tâm Trạng Trên 'FACE']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  11. ^ a b c Lars Brandle (17 tháng 3 năm 2023). “BTS' Jimin Unleashes 'Intense' Solo Single 'Set Me Free Pt.2' [Jimin Đã Phát Hành Đĩa Đơn Solo 'Mãnh Liệt' 'Set Me Free Pt.2']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2023.
  12. ^ a b Larisha Paul (17 tháng 3 năm 2023). “Jimin Puts Himself in Charge With Solo Single 'Set Me Free Pt. 2' [Jimin Đặt Mình Vào Trách Nhiệm Với Đĩa Đơn Solo 'Set Me Free Pt. 2']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2023.
  13. ^ Jeon Hyo-jin (16 tháng 1 năm 2023). “[단독] 방탄소년단 지민, 2월 솔로 데뷔” [[Độc quyền] BTS Jimin, sẽ ra mắt solo vào tháng 2]. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023.
  14. ^ Larisha Paul (13 tháng 2 năm 2023). “BTS' Jimin to Release Debut Solo Album Soon: 'You Can Safely Look Forward to It' [BTS Jimin Sẽ Sớm Phát Hành Album Solo Đầu Tay: 'Bạn Có Thể Yên Tâm Chờ Đợi']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023.
  15. ^ Wan-shik Moon (11 tháng 2 năm 2023). “[단독]'3월 솔로 데뷔' 방탄소년단 지민, 음방 무대 선다” [[Độc quyền] "Ra mắt solo vào tháng 3" Jimin sẽ biểu diễn trên các chương trình âm nhạc]. Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023 – qua Daum.
  16. ^ Annie Martin (22 tháng 2 năm 2023). “BTS member Jimin shares 'Face' release schedule” [Thành viên BTS Jimin chia sẻ về lịch phát hành cho album 'Face']. UPI (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  17. ^ Glenn Rowley (23 tháng 2 năm 2023). “BTS' Jimin Unveils Cover Art & Tracklist for Debut Solo Album 'FACE' [Jimin Tiết Lộ Ảnh Bìa & Danh Sách Bài Hát Cho Album Solo Đầu Tay 'FACE']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2023.
  18. ^ Hyeon-seo Kim (8 tháng 3 năm 2023). “방탄소년단(BTS) 지민, 첫 솔로 앨범 '페이스' 무드 포토 공개” [Thành viên BTS Jimin đã tung ra một bức ảnh tâm trạng của album solo đầu tiên 'Face' đã được phát hành]. TopStar News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2023.
  19. ^ “BTS' Jimin drops first teaser for debut solo album FACE; see photo” [Thành viên BTS Jimin tung teaser đầu tiên cho album solo đầu tay FACE; xem hình ảnh]. Bollywood Hungama (bằng tiếng Anh). 8 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023.
  20. ^ Starr Bowenbank (9 tháng 3 năm 2023). “BTS' Jimin Gets Covered in Silver Studs for 'FACE' Concept Photos” [Thành viên Jimin được bao phủ bởi những chiếc đinh tán màu bạc dành cho những bức ảnh ý tưởng từ 'FACE']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023.
  21. ^ Min-kyung Ji (11 tháng 3 năm 2023). “방탄소년단 지민, 얼굴 상처의 의미..솔로 앨범 두 번째 콘셉트 포토 공개” [Jimin, ý nghĩa của những vết sẹo trên khuôn mặt của và bức ảnh concept thứ hai cho album được tiết lộ] (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  22. ^ HYBE LABELS (14 tháng 3 năm 2023). “지민 (Jimin) 'Set Me Free Pt.2' Official Teaser”. YouTube (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023.
  23. ^ HYBE LABELS (17 tháng 3 năm 2023). “지민 (Jimin) 'Set Me Free Pt.2' Official MV”. YouTube (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2023.
  24. ^ Carl Smith (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin breaks solo BTS UK chart record with Set Me Free Pt 2 as he releases solo album FACE” [Jimin phá vỡ kỷ lục bảng xếp hạng solo của BTS tại Vương quốc Anh với Set Me Free Pt 2 khi anh phát hành album solo FACE] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  25. ^ Jae-hoon Lee (25 tháng 3 năm 2023). “지민 '셋 미 프리 Pt.2', 英 싱글차트 30위…K팝 솔로 최고 데뷔 순위” ['Set Me Free Pt.2' của Jimin, UK Singles Chart lọt top 30... Bảng xếp hạng màn ra mắt solo tốt nhất của K-pop] (bằng tiếng Hàn). Newsis. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  26. ^ Han-gil Kim (24 tháng 3 năm 2023). '엠카' BTS 지민, 트와이스 꺾고 출연 없이 1위 [종합]” ["M Countdown" Jimin (BTS) đánh bại TWICE và giành vị trí quán quân mà không cần biểu diễn [Tổng hợp]]. TV Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  27. ^ Min-ji Lee (8 tháng 3 năm 2023). '솔로 출격' 방탄소년단 지민, 뒷모습 실루엣만으로도 궁금증↑” ["Jimin xuất hiện solo", tò mò về hình bóng phía sau ↑] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  28. ^ HYBE LABELS (21 tháng 3 năm 2023). “지민 (Jimin) 'Like Crazy' Official Teaser”. YouTube (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2023.
  29. ^ HYBE LABELS (24 tháng 3 năm 2023). “지민 (Jimin) 'Like Crazy' Official MV”. YouTube (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  30. ^ Gil Kaufman (24 tháng 3 năm 2023). “BTS' Jimin Looks For Love in the Club in Late Night 'Like Crazy' Video” [Thành viên Jimin Đang Tìm kiếm Tình yêu Trong Một Hộp đêm Trong video 'Like Crazy']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  31. ^ “[Announcement] Jimin "Like Crazy (Deep House Remix / UK Garage Remix)" Release Information” [[Thông báo] Ca khúc Like Crazy (Deep House Remix / UK Garage Remix) của Jimin; Thông tin phát hành]. Weverse (bằng tiếng Hàn và Anh). 26 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2023.
  32. ^ Carl Smith (31 tháng 3 năm 2023). “Jimin breaks his own solo BTS record as Like Crazy goes Top 10” [Jimin phá kỷ lục solo BTS của chính mình khi Like Crazy lọt vào Top 10] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  33. ^ Ayana Herndon (22 tháng 3 năm 2023). “How to Watch BTS Star Jimin's Performance on 'Tonight Show Starring Jimmy Fallon' for Free With Live Stream Platforms” [Cách Xêm Màn Trình diễn Của Siêu sao Jimin Trên 'The Tonight Show Starring Jimmy Fallon' Miễn phí Với Các Nền tảng Phát Trực tiếp]. Women's Wear Daily (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2023.
  34. ^ Myung-mi Kim (24 tháng 3 năm 2023). “방탄소년단 지민, 멜론 스포트라이트 출격…흥미로운 토크 예고” [Jimin (BTS), xuất hiện trên Melon Spotlight... Một bản xem trước về cuộc nói chuyện thú vị] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  35. ^ Charisma Madarang (25 tháng 3 năm 2023). “Jimin Loses Himself in 'Like Crazy' Fallon Performance” [Jimin Đánh mất Chính Mình Trong Màn Trình diễn 'Like Crazy' Của Fallon]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2023.
  36. ^ a b c d “Face EP by Jimin”. Metacritic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  37. ^ Neil Z. Young. “Face – Jimin”. AllMusic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  38. ^ a b Rhian Daly (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin – 'FACE' review: BTS singer captures the turbulence of modern life in shadowy debut solo album” [Jimin – Đánh giá album 'FACE': Ca sĩ của BTS đã nắm bắt được sự hỗn loạn của cuộc sống hiện đại trong album solo đầu tay đầy bóng tối]. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  39. ^ India Roby (24 tháng 3 năm 2023). “On 'FACE,' Jimin Battles His Bleakest Thoughts — And Emerges Triumphant” [Qua 'FACE', Jimin Phải Chiến Đấu Với Những Suy Nghĩ Đen Tối Nhất Của Mình — Và Giành Chiến Thắng]. Nylon (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  40. ^ Veronica A. Bastardo (13 tháng 4 năm 2023). “Jimin Face”. The Quietus (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  41. ^ “[공지] 지민의 'FACE' 앨범 판매량 문의 관련” [[Thông báo] Về các yêu cầu liên quan đến doanh số bán album 'Face' của Jimin] (bằng tiếng Hàn). Hanteo Chart. 24 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  42. ^ Jae-hoon Lee (24 tháng 3 năm 2023). “방탄소년단 지민 '페이스', 발매 첫날 밀리언셀러” [Thành viên Jimin (BTS), có được hơn một triệu bản bán ra trong ngày đầu tiên phát hành] (bằng tiếng Hàn). Newsis. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  43. ^ Shim S (31 tháng 3 năm 2023). “(LEAD) BTS Jimin breaks record for K-pop soloist with 'Face' selling over 1.45 mln copies in 1st week” [(ĐẦU) Jimin (BTS) đã phá kỷ lục nghệ sĩ solo K-pop với album 'Face' bán được hơn 1,45 triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành] (bằng tiếng Anh). Yonhap News. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2023.
  44. ^ Yang Haley (9 tháng 5 năm 2022). “Lim Young-woong's 'Im Hero' album sold more than 1.1 million copies in first week” [Album 'I'm Hero' của Lim Young-woong đã bán được hơn 1,1 triệu bản trong tuần đầu tiên phát hành] (bằng tiếng Anh). Korea JoongAng Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2023.
  45. ^ “Album Chart 2023 Weeks 12” [Bảng xếp hạng album 2023 Tuần 12]. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023.
  46. ^ “デイリー アルバムランキング 2023年03月24日付” [Bảng Xếp Hạng Album Hàng Ngày Ngày 24 Tháng 3 Năm 2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2023.
  47. ^ “デイリー デジタルシングル (単曲) ランキング 2023年03月24日付” [Bảng xếp hạng đĩa đơn kỹ thuật số hàng ngày (ngày 24 tháng 3 năm 2023)] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2023.
  48. ^ a b “週間 CDアルバムランキング 2023年04月03日付 (2023年03月20日~2023年03月26日)” [Bảng xếp hạng Album hàng tuần ngày 3 tháng 4 năm 2023 (20 tháng 3 năm 2023—26 tháng 3 năm 2023)] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  49. ^ a b “週間 デジタルアルバムランキング 2023年04月03日付 (2023年03月20日~2023年03月26日)” [Bảng xếp hạng Album Kỹ thuật số hàng tuần ngày 3 tháng 4 năm 2023 (20 tháng 3 năm 2023—26 tháng 3 năm 2023)] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  50. ^ “Billboard Japan Hot Albums [ 2023/03/29 公開]” [Billboard Japan Hot Albums [Phát hành ngày 29 tháng 3 năm 2023]]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  51. ^ a b “BTSジミン、『'FACE'』がソロアーティスト今年度初の「アルバム」1位【オリコンランキング】” [cJimin (BTS) là nghệ sĩ solo đầu tiên có "album" "'FACE'" đứng trên No.1 năm nay trên [Bảng xếp hạng Oricon]] (bằng tiếng Nhật). Oricon. 28 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2023.
  52. ^ Keith Caulfield (2 tháng 4 năm 2023). “Morgan Wallen's 'One Thing at a Time' Spends a Month at No. 1 on the Billboard 200” ['One Thing at a Time' của Morgan Wallen đã dành được một tháng ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  53. ^ Lee Tae-soo (3 tháng 4 năm 2023). “BTS 지민 '페이스' 빌보드 앨범 2위…K팝 솔로 최고 기록” ['Face' của Jimin (BTS) đứng thứ hai trong bảng xếp hạng album Billboard... Kỷ lục solo K-pop hay nhất] (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023 – qua Naver.
  54. ^ Keith Caulfield (12 tháng 4 năm 2023). “Melanie Martinez, Boygenius, Xikers, Tyler, the Creator & Polyphia Shake Up Album Sales Chart Top 10” [Melanie Martinez, Boygenius, Xikers, Tyler, the Creator & Polyphia Shake Up Lên Bảng Xếp Hạng Doanh Số Bán Album Top 10]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2023.
  55. ^ Noelle Devoe (24 tháng 3 năm 2023). “Jimin Hid a Secret Song Featuring Jungkook On His New Album” [Jimin Giấu Một Bài Hát Bí Mật Có Sự Góp Mặt Của Jungkook Trong Album Mới Của Anh Ấy]. PopSugar (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2023.
  56. ^ “Face - Credits”. Allmusic. Truy cập 9 tháng 4 năm 2023.
  57. ^ "Austriancharts.at – Jimin – Face" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2023.
  58. ^ "Ultratop.be – Jimin – Face" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  59. ^ "Ultratop.be – Jimin – Face" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  60. ^ “Billboard Canadian Albums: Week of April 8, 2023” [Album Billboard Canada: Tuần ngày 8 tháng 4 năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  61. ^ “Hitlisten.NU – Album Top-40 Uge 13, 2023”. Hitlisten. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2023.
  62. ^ "Dutchcharts.nl – Jimin – Face" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2023.
  63. ^ "Jimin: Face" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2023.
  64. ^ “Top Albums (Week 13, 2023)”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2023.
  65. ^ "Offiziellecharts.de – Jimin – Face" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  66. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2023. 13. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 20233.
  67. ^ “Album – Classifica settimanale WK 13 (dal 24.03.2023 al 30.03.2023)” [Album – Bảng xếp hạng tuần WK 13 (24.03.2023 đến 30.03.2023)] (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2023.
  68. ^ tháng 3 năm 2023/ "Oricon Top 50 Albums: 4 tháng 3 năm 2023" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  69. ^ “Oricon Top 50 Combined Albums: 2023-04-03” [Top 50 album tổng hợp của Oricon: 4 tháng 3 năm 2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  70. ^ “Oricon Top 50 Digital Albums: April 3, 2023” [Oricon Top 50 Digital Album: 3 tháng 4 năm 2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  71. ^ “Billboard Japan Hot Albums – Week of March 29, 2023” [Billboard Japan Hot Albums – Tuần ngày 29 tháng 3 năm 2023]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  72. ^ “2023 13-os savaitės klausomiausi (Top 100)” [op ca khúc được nghe nhiều nhất tuần 13 năm 2023 (Top 100)] (bằng tiếng Litva). AGATA. 31 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  73. ^ “NZ Top 40 Albums Chart” [Bảng xếp hạng 40 album hàng đầu New Zealand]. Recorded Music NZ. 3 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2023.
  74. ^ “OLiS – oficjalna lista sprzedaży: Albumy” [OLiS - Danh sách bán hàng chính thức: Album] (Chọn tuần 24.03.2023–30.03.2023.) (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |nhà xuât bản= (trợ giúp)
  75. ^ "Portuguesecharts.com – Jimin – Face" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2023.
  76. ^ “Circle Album Chart – Week 12, 2023” [Bảng xếp hạng Circle Album – Tuần thứ 12 năm 2023]. Circle Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2023.
  77. ^ “Top 100 Albums Weekly”. PROMUSICAE. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  78. ^ “Veckolista Album, vecka 13” [Bảng xếp hạng Album hàng tuần, tuần 13]. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  79. ^ "Swisscharts.com – Jimin – Face" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  80. ^ "Official Album Downloads Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2023.
  81. ^ Keith Caulfield (2 tháng 4 năm 2023). “Morgan Wallen's 'One Thing at a Time' Spends a Month at No. 1 on the Billboard 200” ['One Thing at a Time' của Morgan Wallen dành một tháng ở vị trí số 1 trên Billboard 200]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  82. ^ “World Albums: Week of April 8, 2023” [World Album: Tuần ngày 8 tháng 4 năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  83. ^ a b “Circle Album Chart – March 2023” [Bảng Xếp Hạng Album Circle – Tháng 3 năm 2023]. Bảng xếp hạng Circle (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023.
  84. ^ “Oricon Top 50 Albums: 2023-03” [Top 50 Album Oricon: 03/2023] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2023.
  85. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Jimin – Face” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2023. Chọn 2023年3月 ở menu thả xuống
  86. ^ Doanh số bán hàng cho Face: 1.256.308 + 317.578 (Weverse)
  87. ^ “Pre-order Jimin Solo Album [FACE]” [Đặt trước Album solo của Jimin [FACE]]. Weverse Shop Global (bằng tiếng Anh). 21 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  88. ^ “JIMIN Solo Album 'FACE' 発売決定!本日2月22日(水)より予約販売スタート!Pre-order Jimin Solo Album [FACE]” [Album solo 'FACE' của JIMIN sẽ được phát hành! Đơn đặt hàng trước sẽ bắt đầu từ hôm nay, ngày 22 tháng 2 (Thứ Tư)!]. BTS Japan Official Fanclub (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  89. ^ “Jimin Solo Album 'FACE' for Pre-Order” [Album solo 'FACE' của Jimin đã được đặt hàng trước]. Weverse Shop USA (bằng tiếng Anh). 21 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.