Sinh học đại cương: Giáo trình
Sinh học đại cương: Giáo trình
Giáo trình
TP.HCM, 2020.
Mở đầu
2
cơ quan và các hệ cơ quan. Các thành phần của mỗi mức tổ chức liên quan với
nhau thành một khối thống nhất kể cả sinh quyển. Sự đa dạng các loài là kết quả
của quá trình tiến hoá lâu dài.
2. Sự thống nhất
Sự thống nhất của sự sống chỉ được biết qua các phân tích khoa học. Sự
thống nhất biểu hiện ở hệ thống phân loại và sự giống nhau ở các cấu trúc và cơ
chế vi mô.
Dựa vào những đặc điểm hình thái giống nhau có thể xếp các sinh vật vào
những nhóm nhất định gọi là nhóm phân loại. Nhóm phân loại lớn nhất được gọi
là giới - giới động vật- giới thực vật, ngày nay còn có thêm giới nấm. Mỗi giới
được chia nhỏ dần: giới → giới phụ → lớp → bộ → họ → giống → loài.
Tất cả các loài sinh vật đều có thể xếp theo hệ thống phân loại này. Đây là
bằng chứng về sự tiến hóa của sinh giới từ tổ tiên chung ban đầu - tiến hóa từ
thấp lên cao.
Sự thống nhất thể hiện ở những thành phần cấu tạo nên mỗi cơ thể. Thành
phần hóa học của các sinh vật giống nhau từ những nguyên tố tham gia chất
sống đến bốn nhóm chất hữu cơ: glucid, lipid, protein và acid nucleic.
Tất cả các sinh vật đều có cấu tạo tế bào. Tế bào có biểu hiện đầy đủ các
tính chất đặc trưng của sự sống - nó là đơn vị cơ sở của sự sống.
II. Các tính chất đặc trưng cho sự sống
Sự sống là một dạng hoạt động vật chất phức tạp hơn nhiều và cao hơn
hẳn so với quá trình vật lý và hóa học trong tự nhiên. Nó có những tính chất đặc
trưng giống nhau ở mọi loài.
1. Vật chất: cấu trúc phức tạp và tổ chức tinh vi
Các sinh vật cũng được tạo nên từ những nguyên tố vốn có trong tự nhiên,
nhưng cấu trúc bên trong rất phức tạp và chứa vô số các hợp chất hóa học rất đa
dạng.
Ví dụ : Vi khuẩn Escherichia coli (E-coli) - sinh vật đơn bào với kích
thước (1-2 micromet, nặng 2.10-6 mg chứa khoảng 40 tỉ phân tử nước, 5000 loại
các hợp chất hữu cơ khác nhau, có khoảng 3000 loại protein. Nếu tính ở người
thì số loại protein khác nhau không phải là 3000 mà là 5 triệu loại khác nhau mà
không có loại nào giống của E. coli mặc dù có một số hoạt động giống nhau.
Thậm chí giữa hai người khác nhau protein cũng không giống nhau nên dễ xảy
ra hiện tượng không dung hợp khi lấy mô của người này ghép cho người khác.
Mỗi sinh vật có bộ protein và acid nucleic riêng biệt cho mình.
Các chất phức tạp trong cơ thể sống hình thành nên các cấu trúc tinh vi
thực hiện một số chức năng nhất định. Không những các cấu trúc như màng,
nhân tế bào... mà cả từng loại đại phân tử cũng có vai trò nhất định. Ví dụ bệnh
3
thiếu máu hồng cầu liềm được gọi là "bệnh phân tử".
2. Năng lượng: Sự chuyển hóa phức tạp
Đặc điểm của sự sống là thu nhận năng lượng từ môi trường bên ngoài và
biến đổi nó để xây dựng và duy trì tổ chức phức tạp đặc trưng cho sự sống.
Một số các sinh vật lấy những chất đơn giản nhất như CO2, N2, H2O làm
nguyên liệu và ánh sáng mặt trời làm nguồn năng lượng. Năng lượng tử của ánh
sáng được chuyển thành năng lượng hóa học trong các chất hữu cơ của cây
xanh, từ đó lưu chuyển sang các sinh vật khác.
Sự chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào diễn ra phức tạp, nhiều
phản ứng xảy ra đồng thời, nhanh nhạy, chính xác, hiệu quả cao và được điều
hoà hợp lý.
Vật chất vô sinh không có khả năng sử dụng năng lượng bên ngoài để duy
trì cấu trúc bản thân nó như các sinh vật. Ngược lại vật chất vô sinh khi hấp thụ
năng lượng bên ngoài như ánh sáng, nhiệt nó chuyển sang trạng thái hỗn loạn
hơn và ngay sau đó tỏa ra xung quanh.
Tóm lại tế bào là một hệ thống hở không cân bằng, nó lấy năng lượng từ
bên ngoài vào, sử dụng vật chất và năng lượng với hiệu quả cao hơn hẳn so với
phần lớn máy móc mà con người chế tạo ra. Về mặt năng lượng, tế bào cũng
tuân theo quy luật nhiệt động học II: nó thu nhận vật chất và năng lượng để duy
trì tổ chức cao của nó.
3. Thông tin: ổn định, chính xác và liên tục
Chứa và truyền đạt thông tin là tính chất tuyệt diệu nhất của thế giới sinh
vật, đạt mức phát triển cao hơn hẳn ở giới vô sinh. không có ở các chất vô sinh
nếu thiếu sự chế tạo của con người, nó liên quan đến các quá trình sống chủ yếu
như sinh sản, phát triển, tiến hóa và các phản ứng thích nghi.
Thông tin được hiểu là khả năng của sinh vật cảm nhận trạng thái bên
trong của hệ thống và những tác động lên nó từ môi trường ngoài, bảo tồn, xử lý
và truyền đạt. Cấu trúc của thông tin xác định trạng thái nội tại của hệ thống.
Trong các tế bào sống thông tin có hai dạng chủ yếu: thông tin di truyền và
thông tin thích nghi.
- Thông tin di truyền:
Nhờ có thông tin, tế bào có khả năng tự sinh sản tạo ra thế hệ con giống
hệt cha mẹ. Sự sinh sản gắn liền với tính di truyền được biểu hiện rõ qua nhiều
thế hệ. Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau không phải các tính trạng mà truyền
chương trình phát triển của mỗi loài sinh vật được gọi là thông tin di truyền.
Thông tin di truyền được mã hóa dưới dạng trình tự thẳng của 4 loại nucleotid
rồi hiện thực hóa ra dạng cấu trúc các phân tử protein và các cấu trúc tế bào.
Thông tin di truyền được hiện thực hoá ở thế hệ sau trong quá trình phát
4
triển cá thể. Mỗi sinh vật trong quá trình lớn lên đều lặp lại chính xác các giai
đoạn phát triển như của cha mẹ. Bộ máy di truyền chi phối mọi biểu hiện sống:
tái tạo các cấu trúc tinh vi, điều hoà việc thực hiện hàng loạt chuỗi phản ứng hoá
học phức tạp giúp cơ thể phản ứng và thích nghi với môi trường.
Thông tin di truyền được truyền đạt cho nhiều thế hệ nối tiếp với sự ổn
định cao nhờ các cơ chế sao chép chính xác và phân chia đều cho các tế bào con.
Cá thể sinh vật đến lúc nào đó sẽ chết, nhưng thông tin không chết, lại được
truyền cho thế hệ sau và có thể biến đổi tiến hoá.
Nhờ sự nối tiếp di truyền mà sự sống từ khi xuất hiện cho đến nay là một
dòng liên tục và tất cả các sinh vật trên quả đất đều có quan hệ họ hàng với
nhau, bắt nguồn từ tổ tiên chung ban đầu.
- Thông tin thích nghi
Thông tin thích nghi lúc đầu xuất hiện ở đời sống cá thể, tạo ưu thế trong
đấu tranh sinh tồn nên được chọn lọc tự nhiên giữ lại và ghi thêm vào thông tin
di truyền của sinh vật, nó cũng chịu sự chi phối của bộ gen và được lưu truyền.
Ví dụ : Ánh sáng ở đom đóm, các chất dẫn dụ của côn trùng, âm thanh của chim
kêu... thực vât cũng có thông tin thích nghi nhưng chậm hơn: rể phát triển mạnh
phía có nhiều phân, cây nghiêng ra ánh sáng...
Bộ gen của những sinh vật tiến hoá cao hơn vẫn còn mang nhiều thông tin
di truyền của tổ tiên. Điều này thể hiện rõ ở sự lặp lại các giai đoạn của tổ tiên
trong sự pháy triển phôi của những sinh vật bậc cao. Tiến hoá thích nghi đã tạo
nên sự đa dạng các sinh vật như ngày nay từ một tổ tiên ban đầu. Có lẽ các cơ
chế thu nhận thông tin để phản ứng lại với môi trường sống chung quanh là quan
trọng nhất trong tiến hoá.
Tóm lại, sự sống là một dạng hoạt động vật chất phức tạp trên cơ sở
tương tác đồng thời của 3 yếu tố vật chất, năng lượng và thông tin.
III. Các biểu hiện của sự sống
Trên cơ sở hoạt động tích hợp của vật chất, năng lượng và thông tin, sự
sống có nhiều biểu hiện đặc thù khác hẳn giới vô sinh.
1. Trao đổi chất
Để tồn tại các tế bào phải thực hiện liên tục hàng loạt phản ứng hóa học
để phân hủy chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng và vật liệu cho các quá trình
sinh tổng hợp và các quá trình sống khác như tăng trưởng, vận động, sinh sản...
Toàn bộ các hoạt động hoá học của cơ thể sinh vật được gọi là trao đổi chất
(metabolism). Khi sự trao đổi chất dừng thì cơ thể sinh vật sẽ chết.
2. Sự nội cân bằng
Quá trình trao đổi chất tuy phức tạp, nhưng được điều hòa hợp lý để duy
trì các hoạt động bên trong tế bào ở mức cân bằng và ổn định ở một trạng thái
5
nhất định. Ví dụ, nhiệt độ cơ thể người bình thường luôn được duy trì ở 37oC dù
thời tiết có thay đổi. Xu hướng các cơ thể sinh vật tự duy trì môi trường bên
trong ổn định gọi là sự nội cân bằng (homeostasis) và được thực hiện do các cơ
chế nội cân bằng. Sinh vật ở mức phát triển càng cao, các cơ chế điều hoà càng
phức tạp.
3. Sự tăng trưởng (growth)
Sự tăng trưởng (growth) là sự tăng khối lượng chất sống của mỗi cơ thể
sinh vật. Nó bao gồm sự tăng kích thước của từng tế bào và tăng số lượng tế bào
tạo nên cơ thể. Sự tăng trưởng của tế bào khác nhiều về căn bản so với sự lớn
lên của tinh thể trong dung dịch muối. Khi tăng trưởng diễn ra, từng phần của tế
bào hay cơ thể vẫn hoạt động bình thường.
Một số sinh vật như phần lớn thực vật có thời gian tăng trưởng kéo dài rất
lâu như các cây cổ thụ nghìn năm. Hầu hết động vật có giới hạn tăng trưởng
nhất định, kích thước đạt tối đa lúc sinh vật trưởng thành.
4. Sự vận động
Sự vận động dễ thấy ở các động vật như các động tác leo, trèo, đi lại... Sự
vận động ở thực vật chậm và khó nhận thấy như dòng chất trong tế bào lá. Các
vi sinh vật vận động nhờ các lông nhỏ hay giả túc như ở amip.
5. Sự đáp lại
Là sự đáp lại các kích thích khác nhau từ môi trường bên ngoài. Các động
vật có những phản ứng nhất định như thay đổi màu sắc, nhiệt độ, tập tính sống...
Con mắt người là một cơ quan rất tinh vi thu nhận nhanh nhạy, chính xác các
kích thích ánh sáng truyền cho hệ thần kinh để có phản ứng đáp lại
Các thực vật cũng có nhiều phản ứng tuy chậm và khó nhận thấy hơn như
cây xanh mọc hướng về ánh sáng, cây mắc cỡ rũ lá khibị chạm, cây bắt ruồi đậy
nắp lại khi con vật đã chui vào...
6. Sự sinh sản
Biểu hiện này của sự sống dễ nhận thấy ở tất cả các loài sinh vật. "Sinh
vật sinh ra sinh vật" và "tế bào sinh ra tế bào". Các sinh vật nhỏ bé như các vi
khuẩn lại có tốc độ sinh sản nhanh.
Có hai kiểu sinh sản : vô tính và hữu tính. Sự sinh sản hữu tính ra đời
muộn hơn, nhưng nó tạo nên sự đa dạng lớn làm tăng nhanh tốc độ tiến hoá của
sinh giới.
7. Sự thích nghi
Là khả năng cơ thể thích ứng với môi trường sống- nhằm giúp các sinh
vật tồn tại trong thế giới vật chất luôn biến động- nó làm tăng khả năng sống còn
của các sinh vật trong môi trường đặc biệt. Các cơ thể thích nghi là kết quả của
quá trình tiến hóa lâu dài.
6
IV. Các bộ môn sinh học
Sinh học nghiên cứu vô số các dạng sinh vật trên nhiều khía cạnh khác
nhau như cấu trúc, chức năng, sự phát triển cá thể, sự tiến hoá và mối quan hệ
với môi trường... và ở các mức độ tổ chức khác nhau như mức phân tử, tế bào,
cơ thể, loài và trên loài... Nó là một khoa học rất rộng lớn nên khó có nhà khoa
học nào biết được đầy đủ mọi khía cạnh của nó, phần lớn các nhà sinh học là
chuyên gia của một lĩnh vực nào đó được gọi là bộ môn của sinh học. Mỗi bộ
môn chuyên sâu ở những lĩnh vực nhất định và chúng không ít chỗ trùng lặp.
Sau đây là một số bộ môn chủ yếu
• Thực vật học (Botany): nghiên cứu thế giới thực vật.
• Động vật học (Zoology): nghiên cứu thế giới động vật.
• Hệ thống học (Systematics): sắp xếp hệ thống các dạng sinh vật trong mối
quan hệ họ hàng.
• Sinh lý học (Physiology): nghiên cứu các hoạt động chức năng của cơ thể.
• Sinh học phát triển (Developmental biology): nghiên cứu sự phát triển cá
thể từ phôi đến trưởng thành.
• Tế bào học (Cytology): nghiên cứu cấu tạo, thành phần và chức năng của tế
bào.
• Mô học (Histology): nghiên cứu các mô
• Giải phẩu học (Anatomy): nghiên cứu cấu trúc bên trong cơ thể.
• Di truyền học ( Genetics): nghiên cứu tính di truyền và biến dị
• Sinh hóa học (Biochemistry): nghiên cứu các quá trình sinh hoá
• Lý sinh học (Biophysics): nghiên cứu các quá trình vật lý trong cơ thể sống
• Sinh thái học ( Ecology ): nghiên cứu quan hệ giữa sinh vật và môi trường
• Vi sinh học (Microbiology)nghiên cứu thế giới vi sinh vật
Mỗi môn học lại có thể chia nhỏ ra. Ví dụ động vật học có thể nghiên cứu
động vật có xương và động vật không xương. Động vật có xương có thể chia ra
như ngư học (nghiên cứu về cá) hay điểu học (nghiên cứu về chim)...
Do sự phát triển mạnh của sinh học nhiều lĩnh vực mới được hình thành
như sinh học phân tử (molecular biology), enzyme học (enzymeology)...
Vậy “sinh học là một tổ hợp các môn khoa học nghiên cứu từ những khía
cạnh khác nhau ở những mức độ khác nhau toàn bộ tính đa dạng của sự sống”.
V. Các ứng dụng thực tiễn
Các kiến thức sinh học có nhiều ứng dụng trực tiếp và gían tiếp cho con
7
người. Thế giới sinh vật cung cấp phần lớn những nhu cầu căn bản- tạo môi
trường sống cho con người cho nên sinh học có nhiều ứng dụng thực tiễn:
1. Trực tiếp đối với con người
- Y học là lĩnh vực ứng dụng nhiều nhất các kiến thức sinh học trực tiếp
cho con người. Các kiến thức sinh học giúp con người biết giữ gìn vệ sinh
phòng ngừa bệnh tật. Nhiều phát minh lớn trong sinh học tạo nên những cuộc
cách mạng trong y học như: tìm ra vaccine, tìm ra cơ chế gây viêm nhiễm của
các vi sinh vật giúp ngăn ngừa nhiều bệnh dịch hiểm nghèo. Phần lớn các thuốc
chữa trị có nguồn gốc sinh vật như các dược thảo, các chất chiết xuất tách từ các
cơ thể sinh vật, các thuốc kháng sinh...
- Kiến thức sinh học cũng rất cần cho giáo dục. Việc hiểu biết tâm sinh lý
của từng lứa tuổi, các nghiên cứu về cơ chế của trí nhớ và tìm ra các gen, các
chất làm tăng trí nhớ hứa hẹn sự tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người.
- Cơ sở sinh học của các hoạt động xã hội là vấn đề quan trọng. Luật hôn
nhân gia đình quy định cấm kết hôn giữa những người có họ hàng trực hệ 3 đời,
dựa trên cơ sở giao phối cận huyết dễ sinh các bệnh di truyền. Nhiều ngành văn
nghệ, thể thao... cần năng khiếu mới đạt kết quả cao...
2. Các ngành sản xuất có đối tượng là sinh vật
Các kiến thức sinh học là cơ sở khoa học mà từ đó xây dựng nên các biện
pháp hữu hiệu làm cho sinh vật tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Xã hội loài người đã
phát triển các ngành sản xuất như nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp vi sinh
để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và theo kịp đà tăng dân số.
3. Một vài ứng dụng trong công nghệ sinh học
Kỹ thuật di truyền ra đời tạo sự bùng nổ của công nghệ sinh học mới mở
ra triển vọng vô cùng to lớn để hiểu biết và cải tạo thế giới sinh vật:
- Thu nhận các chất quý bằng nuôi cấy tế bào
- Giải mã bộ gen người
- Thụ tinh trong ống nghiệm
- Điều trị bằng liệu pháp gen ...
8
Chương I.
CƠ SỞ HÓA HỌC CỦA SỰ SỐNG
9
trọng trong co cơ, dẫn truyền xung thần kinh và đông máu.
- Phosphor (P) có khoảng 1%, giữ vai trò quan trọng trong chuyển hoá
năng lượng, thành phần của acid nucleic...
+
- Kalium (K) (Potassium), có khoảng 0,4% là cation (ion ) chủ yếu trong
tế bào, giữ vai trò quan trọng cho hoạt động thần kinh và co cơ.
- Sulfua (S) có khoảng 0,3%, có mặt trong thành phần của phần lớn protein.
- Natrium (Na) (Sodium), có khoảng 0,2% là cation chủ yếu trong dịch
của mô, giữ vai trò quan trọng trong cân bằng chất dịch, trong dẫn truyền xung
thần kinh.
- Magnesium (Mg) khoảng 0,1% là thành phần của nhiều hệ enzyme quan
trọng, cần thiết cho máu và các mô.
-
- Chlor (Cl) khoảng 0,1%, là anion (ion ) chủ yếu của dịch cơ thể, có vai
trò trong cân bằng nội dịch
- Sắt (Fe) (Ferrum) chỉ có dấu vết, là thành phần của hemoglobin,
myoglobin và một số enzyme.
- Iod (I) - dấu vết là thành phần của hormone tuyến giáp.
2. Các liên kết hóa học
Các tính chất hóa học của một nguyên tố trước tiên được xác định bởi số
lượng và sự sắp xếp của các điện tử lớp năng lượng ngoài cùng.
Ví dụ : Hydrogen có 1 điện tử lớp ngoài cùng, carbon có 4, nitrogen có 5 và
oxygen có 6.
Các nguyên tử kết hợp với nhau một cách chính xác bằng những liên
kết hóa học để tạo nên hợp chất. 10
* Liên kết hóa học là lực hút gắn 2 nguyên tử với nhau. Mỗi liên kết chứa
một thế năng hóa học nhất định. Phụ thuộc vào số điện tử lớp ngoài cùng, các
nguyên tử của một nguyên tố hình thành một số lượng đặc hiệu các liên kết với
những nguyên tử của nguyên tố khác.
- Có 2 loại liên kết hóa học chủ yếu là liên kết cộng hóa trị và liên kết ion.
Trong các hoạt động sống thì liên kết quan trọng là liên kết hydro và các
tương tác yếu (như lực hút van der waals vàì tương tác kỵ nước).
2.1. Liên kết cộng hóa trị :
Liên kết cộng hóa trị được tạo ra do góp chung điện tử giữa các nguyên tử.
Ví dụ : Sự gắn 2 nguyên tử Hydrogen tạo thành phân tử khí Hydrogen.
Tron
g phân tử nước có 2 nguyên tử H nối liên kết cộng hóa trị với 1 nguyên tử O :
Liên kết cộng hóa trị đơn khi giữa hai nguyên tử có chung một cặp điện
tử, liên kết đôi khi có chung hai cặp điện tử và liên kết ba khi có chung ba cặp
điện tử.
Ví dụ : Hai nguyên tử Oxygen liên kết đôi với nhau bằng hai cặp điện tử
thành phân tử Oxygen.
2.2. Liên kết ion :
Khi nguyên tử nhận thêm hoặc mất điện tử nó trở nên tích điện được gọi
là ion. Những nguyên tử có 1, 2, 3 điện tử ở lớp ngoài cùng có xu hướng mất
điện tử trở thành các ion mang điện dương (cation). Các nguyên tử có 5 hay 6, 7
điện tử ở lớp ngoài cùng có xu hướng nhận điện tử trở thành ion mang điện âm
(anion).
Do điện tích khác dấu, các cation và các anion kết hợp với nhau nhờ liên
kết ion. Liên kết ion khác với liên kết cộng hóa trị là không góp chung điện tử.
Ví dụ : Na+ + Cl- = NaCl (muối ăn)
2.3. Liên kết Hydro và các tương tác yếu khác :
- Liên kết Hydro :
Liên kết hyđro có xu hướng hình thành giữa nguyên tử có điện âm với
nguyên tử Hydrogen gắn với Oxy hay Nitơ. Các liên kết Hydro có thể được tạo
giữa các phần của một phân tử hay giữa các phân tử. Các liên kết Hydro yếu hơn
liên kết cộng hóa trị 20 lần nhưng giữ vai trò rất quan trọng trong các hoạt động
sống.
- Lực hút van der waals xảy ra khi các phân tử gần kề nhau do tương tác
giữa các đám mây điện tử.
- Tương tác kỵ nước xảy ra giữa các nhóm của những phân tử không
phân cực. Chúng có xu hướng xếp kề11nhau và không tan trong nước như
trường hợp các giọt dầu nhỏ tự kết nhau.
- Các liên kết Hydro, ion, lực Vanderwals yếu hơn liên kết cộng hóa trị
nhiều nhưng chúng xác định tổ chức của các phân tử khác nhau trong tế bào,
nhờ chúng các nguyên tử dù đã có liên kết cộng hóa trị trong cùng phân tử vẫn
có thể tương tác lẫn nhau.
- Các tương tác yếu giữ vai trò quan trọng không những vì chúng xác định
vị trí tương đối giữa các phân tử mà còn vì sự định hình những phân tử mềm dẻo
như protein và acid nucleic.
II. Các chất vô cơ
Trong thành phần chất sống, các chất vô cơ chiếm tỉ lệ nhiều hơn các chất
hữu cơ. Chúng gồm có nước các acid, base, muối và các chất khí hòa tan. Trong
số này nước chiếm tỷ lệ cao nhất và quan trọng nhất cho sự sống.
1. Nước (H2O)
Trong bất kỳ cơ thể sinh vật nào nước cũng chiếm phần lớn, cá biệt như
con sứa nước chiếm 98%, ở động vật có vú nước chiếm 2/3 trọng lượng cơ thể.
Nước là chất vô cơ đơn giản, có số lượng lớn trên hành tinh, nó có những tính
chất lý hóa đặc biệt nên chiếm phần lớn chất sống và có lẽ sự sống bắt nguồn từ
môi trường nước. Cơ thể sinh vật được sinh ra, phát triển, chết đều ở trong môi
trường nước dù là ở dạng này hay dạng khác.
Về mặt hoá học phân tử nước có một nguyên tử Oxygen và hai hydrogen.
Điện tích chung của phân tử nước trung hòa, nhưng các điện tử phân bố không
đối xứng nên làm phân tử nước phân cực. Nhân của nguyên tử Oxygen kéo một
phần các điện tử của Hydrogen làm cho vùng nhân trở nên hơi có điện tích âm ở
hai góc, còn nhân của các nguyên tử Hydrogen trở nên hơi điện dương. Do sự
phân cực, hai phân tử nước ở kề nhau có thể tạo thành liên kết hydro. Các phân
tử nước tập hợp lại thành mạng lưới nhờ các liên kết hydro. Bản chất dịnh vào
nhau của các phân tử nước xác định phần lớn các tính chất đặc biệt của nó, như
sức căng bề mặt, nhiệt năng cao, hấp thu nhiều nhiệt lượng, ít thay đổi nhiệt...
Do bản chất phân cực, các phân tử nước tập hợp xung quanh các ion và
các phân tử khác phân cực. Các chất tham gia với các liên kết hydro của nước
gọi là ưa nước và dễ hoà tan trong nước. Các phân tử không phân cực làm đứt
mạng lưới liên kết hydro của nước. Chúng là các phân tử kỵ nước. Các phân tử
kỵ nước có thể đẩy các phân tử nước để đứng kề nhau.
Lượng nước trong cơ thể nhiều hay ít, tăng hay giảm tùy thuộc vào giai
đoạn phát triển và trao đổi chất của sinh vật. Lúc còn non, nước chiếm tỷ lệ cao
hơn lúc già. Nước cũng thay đổi trong các cơ quan khác nhau.
Ví dụ : Ở chất xám nước chiếm 85% , chất trắng 75%, ở xương 20% và
men răng chỉ có 10%.
12
Hình 1.2. Cấu trúc không gian của nước (a,b), liên kết hydro(c), các phân tử
nước tạo mạng
- Nước có vai trò hết sức quan trọng đối với cơ thể sống :
+ 95% nước ở dạng tự do có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa
và trao đổi chất trong tế bào, giữa tế bào và môi trường. Các chất hóa học tan
trong nước nhờ nước mà phân phối đều, chúng có cơ hội gặp nhau để rồi phản
ứng với nhau.
+ 5% nước ở dạng liên kết bằng các liên kết khác nhau hay kết hợp với
các thành phần khác như protein ...
Khi nước trong tế bào giảm thấp xuống thì các hoạt động trong tế bào
cũng bị giảm.
Ví dụ : amip mất nước co lại trong nang. Do vậy người ta dùng phương
pháp chống ẩm để ức chế không cho vi khuẩn hoạt động và bảo quản sinh vật.
Nước có vai trò trong điều hòa nhiệt độ. Nước có nhiệt dung cao, hấp thu
nhiều năng lượng nóng lên chậm, khi tỏa nhiệt cũng chậm làm nhiệt độ thay đổi
không đột ngột.
Nước làm cho môi trường ôn hòa - động vật và thực vật phát triển tạo môi
trường ngoài và trong cho cơ thể.
Sức căng bề mặt của nước lớn do vậy nước mao dẫn từ đất lên cây.
13
Hiện tượng này cũng giúp máu lưu thông trong cơ thể động vât.
Do tầm quan trọng như vậy nên nước là một nhân tố giới hạn trong sinh
môi. Những nơi ít nước như sa mạc thì sự sống nghèo nàn, vùng rừng mưa nhiệt
đới, vùng bãi triều của sông, biển là những nơi nhiều nước thì sự sống phong
phú hơn.
2. Các chất vô cơ khác
Trong cơ thể ngoài nước ra còn có các chất vô cơ khác như acid, base,
muối vô cơ và các nguyên tố kim loại. Ở động vật có xương, bộ xương chứa
nhiều chất vô cơ nhất (khoảng 1/10 trọng lượng cơ thể, chủ yếu là Ca). Các chất
vô cơ thường gặp là NaCl, KCl, NaHCO3, CaCl2, CaCO3, MgSO4, NaH2PO4,
...các kim loại như I, Zn, Fe, Co, ... ở dạng vô cơ, có trong chất hữu cơ hay gắn
với protein . Chúng có số lượng rất ít, được coi là dấu vết, nhưng giữ vai trò
trọng yếu trong nhiều chất hữu cơ như Fe, trong Heme của Hemoglobin trong
máu, cobalt trong vitamin B12 ...
Đặc điểm quan trọng của chúng là tính chất điện phân cho ra các cation(+)
và các anion(-) từ đó chúng kết hợp với ion H+ và OH- để làm thay đổi pH môi
trường. Các cation và anion có thể kết hợp với nhau tạo thành acid, base hay
trung tính:
H+ + HCO3- → H2CO3 có tính
acid NH4+ + OH- → NH4OH
có tính base
Tuy nồng độ thấp, nhưng muối có vai trò đáng kể trong tế bào và cơ thể.
Sự cân bằng các muối giúp cho hoạt động sinh lí xảy ra bình thường. Khi
các muối bị giảm bất thường thì gây rối loạn.
Ví dụ : Ca trong máu giảm quá mức bình thường gây co giật. Hoạt động
tim rối loạn khi nồng độ K+,Na+, Ca+ mất cân bằng.
NaCl duy trì áp suất thẩm thấu, giữ nước trong mô, khi muối trong mô
tăng, áp suất thẩm thấu tăng do đó mô phải giữ nước để giảm áp suất thẩm thấu.
3. Các khí hòa tan
Dịch cơ thể chứa các khí hoà tan:
- Khí CO2 chỉ chiếm 0,03% trong không khí. Trong cơ thể sinh vật lượng
CO2 có thể nhiều hơn do quá trình oxy hóa chất hữu cơ sinh ra. Ở thực vật khí
CO2 được sử dụng để làm nguồn nguyên liệu tổng hợp các chất hữu cơ.
- Oxygen có nhiều trong không khí (20-21%) hòa tan khá nhiều trong tế
bào, tham gia vào các phản ứng oxy hóa để tạo ra năng lượng cần thiết cho hoạt
động của sinh vật.
- Nitrogen có nhiều trong không khí (79%) nhưng là khí trơ, chỉ có một số
vi sinh vật có khả năng cố định nitơ trong không khí. Các sinh vật khác sử dụng
nitrogen ở dạng hợp chất mà không sử dụng ở dạng khí.
III. Các chất hữu cơ phân tử nhỏ
Các chất hữu cơ là những chất14đặc trưng của cơ thể sinh vật. Chúng
có số lượng rất lớn, rất đa dạng nhưng được tạo nên theo những nguyên tắc
chung cho cả thế giới sinh vật. Có thể phân biệt hai loại: các chất hữu cơ phân tử
nhỏ và các đại phân tử sinh học.
Các chất hữu cơ phân tử nhỏ gồm các chất như hydrocarbon,
carbohydrate (glucide), lipid, các amino acid và các nucleotide cùng các dẫn
xuất. Một số trong các chất này là những đơn vị cấu trúc (đơn phân) cho các đại
phân tử sinh học. Các chất hữu cơ phân tử nhỏ được tổng hợp theo nguyên tắc
từng phản ứng đơn giản do các enzyme xúc tác. Trọng lượng phân tử của chúng
trong khoảng 100 - 1000 và chứa đến 30 nguyên tử C.
1. Các Carbohydrate (glucide)
Các nguyên tố tạo thành gồm: C, H và O. Trong công thức của
carbohydrate dù cho C bằng mấy thì tỷ lệ H và O luôn là 2:1 như trong phân tử
nước. Các phân tử carbohydrate rất khác nhau về kích thước nhưng chẳng khó
khăn gì khi phân loại chúng. Có 3 nhóm chính: đường đơn (monosaccharide),
đường đôi (disaccharide) và đường phức (polysaccharide).
1.1. Các đường đơn (monosaccharide )
Đó là các glucide đơn giản có công thức chung (CH2O)n, số n dao động từ
3 đến 7. Các đường đơn là các aldehyde hay ketone có thêm 2 nhóm hydroxyl
hay nhiều hơn. Đường đơn thường phân loại theo số cacbon có trong chúng.
Đơn giản nhất là đường 3 carbon, gọi là triose như glyceraldehyde,
dihydroxyacetone.
H-C=O CH2OH
H-C-OH C=O
CH2OH CH2OH
Glyceraldehyde Dihydroxyacetone
- Đường 5 (pentose): như Ribose và Deoxyribose: C5H10O5; C5H10O4
- Đường 6 (hexose): như glucose, fructose: C6H12O6
H-C=O (Nhóm aldehyt) H
H-C-OH H-C-OH
HO-C-H C=O (Keton)
H-C-OH HO-C-H
H-C-OH H-C-OH
H-C-OH H-C-OH
H H-C-OH
H
Glucoza Fructoza
15
Trong mỗi nhóm các nguyên tử kết hợp với nhau có thể theo các cách
khác nhau, thường hình thành các cấu trúc hóa học khác nhau dù là số nguyên tử
C, H và O vẫn như nhau. Các dạng cấu trúc này được gọi là các đồng phân cấu
trúc.
Một trong số các kiểu đồng phân có vai trò quan trọng cho hoạt động sống
của tế bào đó là Glucose và Fructose.
Các nhóm aldehyde hay ketone của một gluxide có thể phản ứng với
nhóm hydroxyl. Phản ứng này có thể xảy ra bên trong phân tử gluxide có n > 4
để tạo vòng 5 hay 6 nguyên tử cacbon. Các nguyên tử C trong trường hợp này
đánh số thứ tự từ 1, 2, 3,... từ các đầu gần nhất với nhóm aldehyde hay ketone.
Đường maltose được thấy trong16ống tiêu hóa của người như sản phẩm
đầu tiên của sự tiêu hóa tinh bột, và sau đó được gãy tiếp thành glucose để hấp
thụ vào cơ thể và sử dụng cho quá trình hô hấp. Maltose gồm 2 phân tử glucose
kết hợp với nhau bởi mối liên kết glycosid. Trong cơ thể sống mối liên kết này
hình thành qua một số bước, mỗi bước do 1 enzyme xúc tác.
1.3. Các đường đa (polysaccharide)
Là các polymer được cấu tạo từ các đơn vị đường đơn (monomer) chủ yếu
là glucose do có phân tử lớn. Các polysaccharide được coi là các đại phân tử
sinh học nhưng việc tổng hợp chúng giống với các phân tử nhỏ. Ví dụ: tinh bột
bao gồm nhiều trăm đơn vị glucose nối nhau. Tinh bột gồm 10-20% amylose tan
trong nước, 80-90% amylopectin không tan trong nước gây tính chất keo cho hồ
tinh bột. Tinh bột là chất dự trữ của tế bào thực vật, glycogen là chất dự trữ của
tế bào động vật. Nó có cấu trúc phân tử rất giống amylopectin nhưng phân
nhánh mau hơn qua khoảng mỗi 8-12 đơn vị glucose (amylopectin - 24-30 đơn
vị). Cellulose với số đơn vị glucose là 300-15000, không xoắn cuộn được mà
như 1 băng duỗi thẳng tạo vi sợi.
17
Tinh bột
Tinh bột
Vách tế bào
Sợi cellulose trong vách tế
bào thực vật
18
1.4. Vai trò của carbohydrate trong sinh vật
Là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu của sinh vật, thực vật tổng hợp
nên các chất đường đơn, đường đôi và tinh bột. Động vật ăn thực vật rồi chuyển
glucide thực vật thành của nó và dự trữ ở dạng glycogen, glycogen khi cần thì
biến đổi thành glucose. Glucose là nguồn năng lượng trực tiếp trong tế bào và cơ
thể luôn có một lượng glucose ổn định.
Ví dụ: Ở động vật có vú là 0,1% trong máu - thiếu hay thừa đều
gây rối loạn. Glucose khi bị thủy phân còn làm nguyên liệu để
tổng hợp lipide.
- Chức năng bảo vệ : cellulose cấu tạo nên vách tế bào thực vật, là hơp
chất hưu cơ hiện diện nhiêu nhất trong sinh quyên - nó gồm nhưng phân tử
glucose nối với nhau thành mạch thẳng dài. Chitin cấu tạo nên vỏ các loài tiết
túc, vỏ tôm.
- Các glucide thường gắn với protein hay lipide thành glyco-protein,
glycolipide tham gia vào cấu trúc màng tế bào.
2. Các chất lipid
Lipid gồm các chất như dầu, mỡ có tính nhờn không tan trong nước, tan
trong các dung môi hữu cơ như ether, chlorophorm, benzene, rượu nóng. Giống
như carbohydrate. Các lipid được tạo nên từ C, H, O nhưng chúng có thể chứa
các nguyên tố khác như P hay N. Chúng khác với carbohydrate ở chỗ chứa O
với tỷ lệ ít hơn hẳn.
Hai nhóm lipid quan trọng đối với sinh vật là: nhóm có nhân glycerol và
nhóm có nhân sterol. Các nhân này kết hợp với các acid béo và các chất khác
nhau để tạo thành nhiều loại lipid khác nhau.
2.1.Các acid béo: là các acid hữu cơ có mạch hydrocacbon no như acid palmitic:
CH3- (CH2)14-COOH, acid stearic: CH3-(CH2)16-COOH, hoặc có mạch
hydrocarbon không no (có nối đôi) như acid oleic: CH3-(CH2)7-CH=CH-(CH2)7-
COOH.
19
Triglycerid
20
2.2.Glycerid: còn gọi là mỡ trung tính. Do sự kết hợp của một phân tử glycerol
với 3 phân tử acid béo (triglycerid). Sáp ong là một loại glycerid.
2.3. Phospholipid:
Là những lipid được tạo nên do sự kết hợp của hai nhóm -OH của một
phân tử glycerol với 2 phân tử acid béo, còn nhóm OH thứ ba gắn với 1 phân tử
H3PO4 . Tiếp theo phosphate lại gắn với các nhóm nhỏ khác phân cực (rượu).
Lecitin là một phospholipid rất hay gặp ở thực vật và động vật, nhất là trong
lòng đỏ trứng, tế bào thần kinh, hồng cầu.
Các phân tử phospholipid có 1 đầu ưa nước và đuôi kỵ nước. Đầu ưa
nước phân cực - chứa acid phosphoric. Đuôi kỵ nước không phân cực gồm các
chuỗi bên của các acid béo. Các phospholipid và glycolipid tạo nên lớp màng
lipid đôi là cơ sở của tất cả màng tế bào.
Đuôi kỵ nước
acid béo
Đầu ưa nước
Đuôi kỵ
nước
Biểu tượng
Hình 1.7. Cấu trúc phospholipid phospholipid
21
Hình 1.8. Cholesterol
22
2.5.Vai trò của Lipid
- Các lipid giữ vai trò quan trọng trong tế bào, là nguồn dự trữ dài hạn của
sinh vật như lớp mỡ dưới da, quanh phủ tạng.
- Các phospholipid và cholesterol là thành phần chủ yếu của các màng tế bào.
- Chống mất nhiệt và cách nhiệt
- Lipid còn là thành phần của một số vitamin như vitamin D và là dung
môi của nhiều vitamin (A, D, E, K, ...)
IV. các đại phân tử sinh học
1. Protein
Protein chiếm một nửa các hợp chất C có trong cơ thể sống. Mặc dù có
chung nhiều nét cơ bản; sự cấu tạo chúng cực kỳ linh hoạt và do đó các protein
cá biệt có các chức năng chuyên hóa rất khác nhau.
- Protein có chứa các nguyên tố chính: C, H, O, N, S, P là một trong
những đại phân tử lớn nhất trong tế bào, thực hiện nhiều chức năng khác nhau
như: enzyme, vận chuyển, các tiếp thể, hormone, vận động, bảo vệ, cấu trúc...
- Các đơn phân của protein là các amino acid.
- Trong phân tử protein có hai yếu tố cơ bản để quyết định vai trò của nó
trong hoạt động chức năng đó là:
+ Bản chất của các amino acid trong phân tử protein dựa trên nhóm chuỗi
bên của
chúng.
+ Hình dạng của phân tử protein.
1.1. Các amino acid
Có 20 loại amino acid khác nhau với công thức tổng quát:
H
NH2 Ca COOH
R
Công thưc tông quat cua L-a-amino acid
Nguyên tử C trung tâm (gọi là Cα), nối với các nhóm H, -NH2 (nhóm
amine mang tính kiềm), -COOH (nhóm carboxyl mang tính acid) và nhóm biến
đổi gọi là nhóm -R (gốc bên) khác nhau cho mỗi amino acid. Các nhóm H, NH2
và COOH là phần cố định của tất cả các amino acid. Các amino acid tồn tại chu
yếu trong tự nhiên có nhóm amine đứng ơ bên trái truc, đươc goi là amino acid
dạng L. Dạng D-amino acid chi tồn tại riêng biệt, vi du trong thành tế bào vi
khuân. 23
Ví dụ :
24
H H
CH3 CH2OH
Alanin Serin
- Các amino acid được chia thành 4 nhóm căn cứ vào các gốc R:
Phân cực
Tích điện
Không
Phân cực
26
*Các amino acid với nhóm -R acid (tích điện âm): aspartic acid, glutamic
acid.
Các amino acid với nhóm -R acid hoặc kiềm hình thành các ion tích điện
âm hoặc dương và ưa nước. Kết quả là các protein chứa chúng dễ tan trong
nước. Trong protein viên, các nhóm tích điện này rất quan trọng trong việc hình
thành các liên kết giữa các đoạn khác nhau của protein để duy trì ổn định hình
dạng của phân tử.
*Các amino acid với nhóm -R không phân cực: glycine, alanine, valine,
leucine, isoleusine, proline, phenylalanine, methionine, triptophan. Sự có mặt
với tỷ lệ lớn các amino acid này làm cho các protein không tan và ít hoạt tính.
Chúng thường thấy trong các protein cấu trúc như collagen.
Các amino acid có nhóm R không phân cực có xu hướng nằm vào bên
trong còn các amino acid kiềm hay acid rất phân cực nên hầu như nằm phía
ngoài phân tử protein.
1.2. Các nhóm -NH2 và -COOH
Các nhóm này quan trọng vì chúng có khuynh hướng phân ly khi hòa tan
trong nước, làm cho các amino acid trở thành các ion lưỡng cực vì mỗi ion đều
chứa COO(-) và NH3(+) trái dấu nhau.
NH2
H C R (Phân tử không có điện tích)
COOH
28
H O H O
N C C + N C C
H H OH H H OH
Lấy nước đi
H R O O
N C C N C C + H2O
H H H H OH
Nhóm amin dipept Nhóm carboxyl
tự do “đầu N” it tự do “đầu C”
29
Cấu trúc bậc
1
Hình 1.12. Các mức độ tổ chức của phân tử protein: cấu trúc
bậc 1, 2, 3, và 4
2.2. Cấu trúc bậc 2
Là tương tác không gian giưa các gốc amino acid ơ gân nhau trong chuôi
polypeptide. Cấu truc đươc làm bên chu yếu nhơ liên kết hydrogen đươc tạo
thành giưa các liên kết peptide ơ kê gân nhau, cách nhau nhưng khoảng xác
đinh. Do cấu truc bậc 1 gấp khuc môt cách ngẫu nhiên dưới các điều kiện sinh
học vì các gốc R khác nhau tác động với nhau theo nhiều cách khác nhau nên
cấu truc bậc 2 xếp thành hai nhóm: xoăn a (a-helix) và lá phiến b. Loại a- helix
là sơi ơ dạng xoăn ốc, cuôn xung quanh môt truc, môi vong xoăn có 3,6 gốc
amino acid. Trong cấu trúc này có nhiều liên kết hydro với mức năng
30
lượng nhỏ vì vậy nó đảm bảo tính đàn hồi sinh học.
Hình 1.13. Cấu trúc bậc 2 của phân tử protein
- Phiến gấp nếp β :
Là chuỗi polypeptid được gấp nếp nhiều lần và đưọc ổn định nhờ các liên
kết hydro giữa các nguyên tử của các liên kết peptid trong đoạn kế nhau của
chuỗi. Trong liên kết này các mạch đã được kéo căng ra - dễ gấp nếp nhưng rất
dễ bị đứt khi kéo căng thêm. Cả hai loại cấu trúc này đều tạo nên bởi liên kết
hydro giữa các khu vực liên kết peptid của mạch. Nhóm biến đổi R không tham
gia vào sự hình thành cấu trúc bậc 2. Cả hai chuỗi có thể cùng có mặt trong phân
tử protein.
Ví dụ : Chuỗi a và β trong cấu trúc Hb trong hồng cầu.
2.3. Cấu trúc bậc 3
Là tương tác không gian
giưa các gốc amino acid ơ xa
nhau trong chuôi polypeptide, là
dạ ng cu ôn lại tron g không gian
cua toàn chuôi polypeptide.
Nhiêu chuôi polypeptide trong
cơ thê sống tồn tại không phải ơ
dạng thăng mà gấp khuc và qua đó
mà tạo nên cấu truc không gian ba
chiêu. Tuy nhiên, cấu truc này hoàn
toàn xác đinh, chu yếu là do trinh tự
các amino acid và môi trương. Khi
môt chuôi pol ypeptide tách ra khoi
ribosom e sau khi tông hơp và đươc
thải ra trong tế bào chất như là môi
trương tạo hinh thi nó hinh thành
nên cấu truc tự nhiên rất nhanh, đăc
31
biệt đối với cấu truc hinh câu, mang
lại cho protei n nh ưng đăc tinh sin
h ly quan
trong. Có thê do chuyên đông nhiệt cua các chuôi polypeptide mà các nhóm cua
các gốc amino acid tiếp xuc với nhau, dẫn đến có thê kết hơp với nhau.
32
Cấu trúc bậc 3 đặc biệt phụ thuộc vào tính chất của các nhóm R trong
mạch polypeptit. Các gốc R phân cực hay ion hóa có khuynh hướng quay ra
ngoài (ưa H2O) , các gốc R không phân cực có xu thế vùi vào trong (kỵ nước).
Cấu trúc bậc 3 giữ được hằng định, bởi lực hút giữa các gốc phân cực hay
ion hóa của nhóm chuỗi bên (R). Lực hút của các gốc trên với các phân tử H2O
bao quanh hay giữa các liên kết hóa trị giữa các nhóm bên của chuỗi
Trong nhiêu protein hinh câu có chứa các gốc c ysteine, sự tạo thành các
liên kết disulfite giưa các gốc cysteine ơ xa nhau trong chuôi polypeptide, làm
cho chuôi bi cuôn lại đáng kê. Các liên kết khác, như liên kết Val der Waal, liên
kết tinh điện, phân cực, ky nước và hydrogen giưa các mạch bên cua các gốc
amino acid đêu tham gia làm bên cấu truc bậc 3, như
protein hinh câu. Cấu truc hinh câu
cua protein đươc goi là cấu truc bậc
ba, là cấu truc cua enzyme.
2.4. Cấu trúc bậc 4
Là tương tác không gian giưa các
chuôi của các phân tử protein gồm
hai hay nhiều chuôi po lypeptide hin
h câu . Môi chu ôi polypeptide này
đươc goi là môt “tiêu đơn vi”. Sự kết
hơp giưa các phân tử này chu yếu là
do liên kết hydrogen và ky nước mà
không có cầu disulfit hoặc bất kỳ
liên kết hóa tri nào giưa các tiêu đơn
vi.. Băng cách này hai phân tử xác
đinh có thê kết hơp với nhau tạo
thành môt dimer. Hemoglobin là
một điển hình của protein có cấu trúc
bậc 4, đươc tạo nê n tư hai chu ôi a
với môi chuôi có 141 gốc amino
acid và hai chuôi
b với môi chuôi là 146 gốc amino acid.
Cấu truc cua môt hoăc nhiêu chuôi polypeptide có y nghia quan trong đối
với đô hoa tan và chức năng cua chung. Cấu truc protein đươc hiêu là sự săp xếp
cua nhưng chuôi riêng le hoăc nhiêu chuôi. Chung phu thuôc nhiêu vào đô pH
cua môi trương. Protein và chuôi polypeptide hoà tan tốt khi nhưng nhóm ưa
nước hướng ra phia ngoài, nhóm ky nước hướng vào bên trong. Khi môt protein
thay đôi cấu truc thi nhưng nhóm ky nước quay ra ngoài, protein mất khả năng
hoa tan trong nước, vi du trương hơp kết tua không ơ dạng tinh thê cua protein
sưa trong môi trương chua. Lactic acid đươc sản sinh do vi khuân làm giảm pH
sưa, làm thay đôi protein sưa. Nhiêu nhóm ky nước đươc hướng ra bên ngoài,
protein mất khả năng tan trong nước. Vi vậy, việc thương xuyên duy tri giá tri
pH trong tế bào chất rất quan trong, vi chi có như vậy chức năng hoạt đông
cua các enzyme trong tế bào chất mới33đươc đảm bảo.
3. Phân loại Protein
Ptotein thuần
Có hai nhóm
protein
Protein tạp
3.1. Protein thuần : gồm các protein được cấu trúc toàn từ các axit amin.
34
Ví dụ : Chymotripsine tụy bò
3.2. Protein tạp : gồm protein thuần + nhóm ngoài.
Ví dụ : lipoprotein gồm protein gắn với
lipid glycoprotein gồm protein
gắn với glucid
Hb trong hồng cầu người là protein tạp (globin + Hem)
Bốn chuỗi polypeptit hợp lại thành globin + Hem là nhóm ngoài.
4. Các tính chất của protein
- Tính đặc trưng : đặc trưng bởi thành phần, số lượng, trình tự sắp xếp các
axit amin trong phân tử.
- Tính đa dạng
- Tính ổn định tương đối. (Protein có khả năng biến tính và hồi tính).
*Đa số protein bị mất hoạt tính sinh học (bị biến tính) trong các điều kiện
nhiệt độ và pH không thuận lợi. Biến tính có thể xảy ra ở nhiệt độ 50-70oC. Nó
thường không ảnh hưởng tới các liên kết cộng hóa trị hoặc các cầu disulfit
nhưng các liên kết H yếu và điện hóa trị thì bị gãy và như thế mạch polypeptid
bị tháo gỡ. Hình dạng phức tạp của protein bị mất đi và không hoạt động được
bình thường nữa.
*Trong nhiều trường hợp sự biến tính là một quá trình thuận nghịch và
các tính chất của protein có thể khôi phục lại khi đưa nó quay trở về các điều
kiện bình thường. Quá trình này gọi là sự hồi tính, khi các phân tử protein đã
duỗi xoắn lại cuộn trở lại thành cấu hình bình thường của nó.
5. Chức năng của protein
Protein có chức năng sinh học rất đa dạng
5.1. Vai trò xúc tác:
Các enzyme là nhóm protein lớn nhất, có hàng nghìn enzyme khác nhau.
Chúng xúc tác cho môi phản ứng sinh hóa nhất đinh. Môi môt bước trong trao
đôi chất đêu đươc xuc tác bơi enzyme. Enzyme có thê làm tăng tốc đô phản ứng
lên 1016 lân so với tốc đô phản ứng không xuc tác. Các enzyme tương đồng tư
các loài sinh vật khác nhau thi không giống nhau về cấu trúc hóa học.
Ví dụ : tripsine của bò khác tripsine của lợn
5.2. Vai trò cấu trúc:
Protein là yếu tố cấu trúc cơ bản của tế bào và mô như protein màng, chất
nguyên sinh, collagen và elastin- protein chủ yếu của da và mô liên kết; keratin -
trong tóc, sừng, móng và lông...
5.3. Vai trò vận chuyển:
35
Làm nhiệm vu vận chuyên chất đăc hiệu tư vi tri này sang vi tri khác,
vi du vận chuyên O2 tư phôi đến các mô do hemoglobin hoăc vận chuyên acid
beo tư mô dự trư đến các cơ quan khác nhơ protein trong máu là serum albumin.
Các chất đươc vận chuyên qua màng đươc thực hiện băng các protein đăc
hiệu, vi du vận chuyên glucose hoăc các amino acid qua màng.
36
5.4. Vai trò vận động:
Môt số protein đưa lại cho tế bào khả năng vận đông, tế bào phân chia và
co cơ. Các protein này có đăc điêm: chung ơ dạng sơi hoăc dạng polymer hóa đê
tạo sơi, vi du actin, myosin là protein vận đông cơ. Tubolin là thành phân cơ bản
cua thoi vô săc, có vai tro vận động lông, roi.
5.5. Vai trò bảo vệ:
Protein bảo vệ có môt vai tro lớn trong sinh hoc miên dich. Đông vật có
xương sống có môt cơ chế phức tạp, phát triên cao, với cơ chế này chung ngăn
ngưa nhưng tác nhân vi sinh vật gây bệnh (virus, vi khuân, nấm, chất đôc vi
khuân). Chức năng này có phân liên quan đến đăc tinh cua chuôi polypeptide.
Hệ thống tự vệ toàn bô, sinh hoc miên dich là môt linh vực khoa hoc phát triên
đôc lập. Môt protein lạ (virus, vi khuân, nấm) xâm nhập vào máu hoăc vào mô
thi cơ chế tự vệ đươc hu y đông rất nhanh. Protein lạ đươc goi là kháng ngu yên
(antigen). Nó có môt vung gồm môt trật tự xác đinh các nguyên tử, với vung này
nó kết hơp với tế bào lympho và kich thich tế bào này sản sinh ra kháng thê.
Nhưng tế bào lympho tồn tại trong hệ thống miên dich với số lương 109 và có
trên bê măt cua nó nhưng vung nhận, nơi mà antigen đươc kết hơp vào. Nhưng
vung nhận này rất khác nhau và “phu hơp” môi vung cho môt antigen xác đinh.
Nhưng tác nhân khác nhau có nhưng tế bào lympho xác đinh khác nhau với
nhưng vung nhận phu hơp. Khi môt antigen kết hơp với tế bào lympho thi nó băt
đâu sản sinh kháng thê đăc hiệu đối với tác nhân gây bệnh. Nhưng tế bào
lympho khác không đươc kich thich cho việc sản sinh ra kháng thê. Có săn môt
số lương lớn các tế bào lympho khác nhau, chung có thê tông hơp đươc rất
nhanh nhưng kháng thê khác nhau khi kháng nguyên xuất hiện. Nhưng loại
kháng thê khác nhau này là xác đinh, tồn tại với số lương không đếm đươc, có
thê môt vài triệu, ơ đây môi môt loại có môt vi tri kết hơp duy nhất đăc trưng.
Khả năng lớn không thê tương tương đươc cua hệ thống miên dich đa làm cho
protein lạ, protein cua tác nhân gây bệnh trơ thành vô hại. Nhưng kháng thê này
đươc goi là globulin miên dich. Chung chiếm khoảng 20% protein tông số trong
máu.
Môt nhóm protein bảo vệ khác là protein làm đông máu thrombin và
fibrinogen, ngăn cản sự mất máu cua cơ thê khi bi thương.
5.6. Vai trò dự trữ:
Các protein là nguồn cung cấp các chất cân thiết đươc goi là protein dự
trư. Protein là polymer cua các amino acid và nitơ thương là yếu tố hạn chế cho
sinh trương, nên cơ thê phải có protein dự trư đê cung cấp đây đu nitơ khi cân.
Vi du, ovalbumin là protein dự trư trong long trăng trứng cung cấp đu nitơ cho
phôi phát triên. Casein là protein sưa cung cấp nitơ cho đông vật có vu con non.
Hạt ơ thực vật bậc cao cung chứa môt lương protein dự trư lớn (khoảng 60%),
cung cấp đu nitơ cho quá trinh hạt nảy mâm. Hạt đậu (Phaseolus vulgaris) chứa
môt protein dự trư có tên là phaseolin.
Protein cung có thê dự trư các chất khác ngoài thành phân amino acid
(N, C, H, O, và S), vi du ferritin là37protein tim thấy trong mô đông vật kết
hơp với Fe. Môt phân tử ferritin (460 kDa) găn với 4.500 nguyên tử Fe (chiếm
35% trong lương). Protein có vai tro là giư lại kim loại Fe cân thiết cho sự tông
hơp nhưng protein chứa Fe quan trong như hemoglobin
5.7. Các chất có hoạt tính sinh học cao:
Môt số protein không thực hiện bất ky sự biến đôi hóa hoc nào, tuy nhiên
nó điêu khiên các protein khác thực hiện chức năng sinh hoc, điêu hoa hoạt đông
trao đôi chất. Vi du insulin điêu khiên nồng đô đương glucose trong máu. Đó là
môt protein nho (5,7 kDa), gồm hai chuôi polypeptide nối với nhau băng các
liên kết disulfite. Khi không đu insulin thi sự tiếp
38
nhận đương trong tế bào bi hạn chế. Vi vậy mức đương trong máu tăng và dẫn
đến sự thải đương mạnh me qua nước tiêu (bệnh tiêu đương).
Môt nhóm protein khác tham gia vào sự điêu khiên biêu hiện gen. Nhưng
protein này có đăc tinh là găn vào nhưng trinh tự DNA hoăc đê hoạt hóa hoăc ức
chế sự phiên ma thông tin di truyên sang mRNA, vi du chất ức chế (repressor)
đinh chi sự phiên ma.
V. Các chất xúc tác sinh học
Các chất xúc tác sinh học bao gồm các enzyme, vitamine, hormone.
Chúng là những yếu tố vi lượng nhưng rất cần thiết, chúng hoạt động mạnh
trong điều kiện nhẹ nhàng của cơ thể. (về to, pH, ...). Enzyme có nhiệm vụ xúc
tác cho các phản ứng sinh học. Nhiều vitamine tham gia vào cấu tạo của
enzyme nên cũng tham gia vào các hoạt động của enzyme. Các hormone có tác
dụng điều hòa chuyển hóa thông qua hoạt động của nó đối với enzyme. Ba loại
chất này có liên quan mật thiết với nhau.
1. Các cơ chế cơ bản của hoạt động enzyme
1.1. Định nghĩa enzyme :
Enzyme là các chất xúc tác sinh học có bản chất là protein. Chúng xúc tác
các phản ứng với tính đặc hiệu và hiệu quả cao. Chúng là động lực của các phản
ứng sinh học; là công cụ phân tử hiện thực hóa thông tin di truyền chứa trên
DNA.
1.2. Cấu trúc cơ bản của enzyme
Tất cả các enzyme đều là các protein viên (hình cầu). Nói chung cũng như
protein, enzyme có cấu trúc rất phức tạp. Mỗi enzyme đều có 1 trung tâm hoạt
động. Trung tâm được mô tả như một khe mà phân tử cơ chất có thể lấp vào.
Một số amino acid có nhóm R tham gia cấu tạo nên trung tâm hoạt động. Các
amino acid tham gia vào trung tâm hoạt động không xếp kề nhau trong mạch
polypeptid. Điều này chứng tỏ rằng sự cuộn lại phức tạp trong không gian của
phân tử protein để hình thành cấu trúc bậc 3 đã kéo các amino acid từ các điểm
khác nhau của mạch polypeptid đến gần nhau về mặt không gian để hình thành
trung tâm hoạt động của enzyme thường gồm các amino acid không kề nhau -
đó là điều bình thường.
1.3. Phương thức hoạt động của enzyme
Mỗi enzyme có một cấu hình lập thể xác định và nó ăn khớp với các phần
tử phản ứng hay các cơ chất.
Đầu tiên là sự hình thành phức hợp enzyme - cơ chất. Mỗi phân tử
enzyme có một trung tâm hoạt động, trong quá trình chuyển động của enzyme
và cơ chất, khi chúng va chạm đúng hướng với nhau thì cơ chất được bám tạm
thời vào vị trí trung tâm hoạt động. Enzyme và cơ chất tương tác với nhau để
phản ứng xảy ra trong cơ chất, tạo ra các sản phẩm thích hợp rồi chúng rời ra
khỏi trung tâm hoạt động của enzyme - từ đó enzyme được tự do để tiếp tục
39
liên kết với cơ chất mới.
Cơ chế hoạt động này được mô tả như "khóa" và "chìa". Tuy nhiên chỉ
mang tính chất tương đối vì cả hai bên đều không cố định mà chúng tương tác
với nhau để có sự thay đổi cả hai bên “phù hợp do cảm ứng” tạo điều kiện cho
phản ứng xảy ra nhanh hơn. Khi phản ứng thực hiện xong thì enzyme trở lại cấu
trúc như cũ.
Enzyme thường hoạt động một cách đặc hiệu, một enzyme thường chỉ xúc
tác cho một phản ứng nhất định với một cơ chất nhất định.
Ví dụ : Lactase thủy phân lactose
40
Amylase thủy phân tinh bột
Người ta phân ra hai loại enzyme - theo tính chất tương đối :
. Enzyme có bản chất protein thuần- chúng đều là các enzyme thủy phân.
. Enzyme có bản chất protein tạp- trong đó có hai loại: enzyme có nhóm
ngoại gắn chặt (cytocrom) và enzyme có nhóm ngoại dễ tách (như coenzyme).
2. Các tác nhân ảnh hưởng tới các phản ứng do enzyme kiểm soát
2.1. Nhiệt độ
Khi nhiệt độ tăng, tăng năng lượng động học ( tần số va chạm phát triển (
tần số phức hợp enzyme - cơ chất phát triển trên một đơn vị thời gian do đó tốc
độ phản ứng tăng và tăng sản phẩm.
Với nhiều loại phản ứng, kể cả phản ứng xúc tác vô cơ, sự tăng này có thể
tiếp diễn vô hạn. Tuy nhiên trong phản ứng do enzyme kiểm soát nhiệt độ tối ưu
nhanh chóng đạt đến tương ứng với tốc độ cực đại của phản ứng. Cao hơn nhiệt
độ tối ưu ( tốc độ phản ứng giảm nhanh vì nhiệt độ cao đã làm enzyme (protein)
bị biến tính. Trung tâm hoạt động mất đi cấu hình chuẩn và không còn phù hợp
được với cơ chất --> làm mất vai trò xúc tác. Nếu nhiệt độ thấp --> tốc độ phản
ứng chậm.
Cá biệt có những enzyme chịu được nhiệt độ cao như amylase trong công
nghiệp dệt chịu được nhiệt độ hơn 100oC. Loài cá băng ở Nam cực có enzyme
hoạt động hiệu quả ở
-2oC.
2.2. pH
Đa số enzyme thích hợp pH tối ưu bằng 7 - đó cũng là pH bình thường
bên trong tế bào. Các enzyme hoạt động bên ngoài tế bào thường đòi hỏi nhiều
pH khác nhau. Ví dụ: pepsin hoạt động tốt trong điều kiện pH = 2. Còn Tripsin
(cũng thủy giải protein) hoạt động tốt ở pH = 7-8,5.
Sự lệch pH tối ưu sẽ ảnh hưởng tới hoạt tính của enzyme theo hai cách trái
ngược
nhau.
- Trường hợp các vị trí hoặc liên kết trong trung tâm hoạt động có dạng
các ion tích
điện - một số giá trị pH là ức chế vì nó làm tái kết hợp các ion này - các nhóm
không tích điện tạo nên sẽ không tương tác được với cơ chất.
- Khả năng thứ hai: là enzyme bị biến tính - nhất là các giá trị pH cực trị -
nó làm yếu hay đứt các liên kết yếu giữa các bộ phận của enzyme. Ngoài ra có
thể tạo ra một số liên kết khác mà trước đây không có trong phân tử.
2.3. Nồng độ cơ chất và nồng độ enzyme
Tốc độ đa số các phản ứng do enzyme kiểm soát bị thay đổi theo nồng độ
cơ chất - nhưng chỉ khi nồng độ cơ41chất còn tương đối thấp. Khi nồng độ
cơ chất tăng nhiều thì tốc độ phản ứng trở nên ít phụ thuộc vào nồng độ cơ
chất mà lại tùy thuộc vào số lượng enzyme có mặt.
Khi nồng độ cơ chất thấp, nhiều phân tử enzyme có trung tâm hoạt động
tự do và sự cung cấp hạn chế cơ chất sẽ xác định tốc độ phản ứng. Ngược lại
nồng độ cơ chất cao, hầu hết các trung tâm hoạt động bị chiếm lĩnh do đó lúc
này số lượng phân tử enzyme lại là yếu tố quyết định phản ứng.
42
Trong hoạt động trao đổi chất của tế bào mối tương quan này có tầm quan
trọng như những phương thức kiểm soát tốc độ phản ứng khác nhau.
Đối với một số phản ứng nồng độ cơ chất bình thường vẫn là nhân tố
quan trọng, nhưng ở số khác nồng độ enzyme lại có tính quyết định.
3. Các chất ức chế enzyme
3.1. Các chất ức chế cạnh tranh
Các chất này có cấu tạo hóa học và hình dạng khá giống với cơ chất. khi
chúng cùng có mặt với cơ chất sẽ cạnh tranh với cơ chất trung tâm hoạt động
(làm cho hoạt động xúc tác của enzyme bị kìm hãm.
Succinidehydrogenase
Ví dụ: axit Succinic----------------------- > axit fumaric.
Axit malonic tác động như chất ức chế cạnh tranh bằng cách chiếm lĩnh
trung tâm hoạt động giống như axit succinic. Axit malonic không bị biến đổi
trong khi đó phức hợp enzyme - chất ức chế lại bền vững hơn enzyme - cơ chất -
-> hiện tượng này có thể khắc phục bằng cách giảm nồng độ chất ức chế.
3.2. Các chất ức chế không cạnh tranh
Chúng không kết hợp với trung tâm hoạt động của enzyme và không chịu
ảnh huởng của nồng độ cơ chất. Phổ biến là các ion kim loại nặng (Hg2+, Ag 2+).
Chúng kết hợp với phân tử enzyme ở một khu vực thứ nhất làm biến đổi hình
dạng và tính chất ở khu vực thứ hai (trung tâm hoạt động) của enzyme do vậy
enzyme không thể tương tác được với cơ chất.
Muối assen và cyanid tác động theo cách như thế. Ngoài ra một số chất
cạnh tranh có vai trò như chất hoạt hóa trong sự điều chỉnh hoạt động enzyme.
3.3. Các cofactor enzyme
Nhiều enzyme không thể
hoạt động chính xác khi thiếu một
Cơ chất
chất nhỏ hơn không phải protein
gọi là cofactor. Cofactor thường
hoạt động như cái “cầu” giữa
enzyme và cơ chất, nó thường tham
gia trực tiếp vào phản ứng hóa học
của quá trình xúc tác. Đôi khi
cofactor cung cấp cho nguồn năng
lượng hóa học thúc đẩy phản ứng
mà nếu không có thì phản ứng khó
hay không thể xảy ra.
Một số enzyme cần các ion
kim loại là cofactor (như Mg , Fe và một số ion của các nguyên tố như Zn2+,
2+ 2+
43
Cu2+).
Cofactor cũng có thể là các phân tử hữu cơ nhỏ các chất này được gọi là
coenzyme thường có quan hệ mật thiết với vitamine. (Coenzyme là những
enzyme cá biệt).
4. Sự điều chỉnh hoạt tính enzyme
Một số enzyme có khả năng phá hoại nếu nó trở nên có hoạt tính không
đúngchỗ do đó cần có các túi bao gói chúng lại.
44
Pepsin là một loại enzyme tiêu hóa protein rất mạnh, có thể phá vỡ cấu
trúc nội bào--> Các tế bào dạ dày đã sản xuất pepsin dưới dạng pepsinogen -
chất này chỉ có hoạt tính khi rơi vào nơi pH axit mạnh. Các tế bào lót xoang dạ
dày được bảo vệ khỏi axit và enzyme bằng một lớp nhầy và do đó sự tiêu hóa
thức ăn xảy ra an toàn. Hệ thống enzyme trong lysosom cũng tương tự.
Đa số các enzyme không bơi tự do trong tế bào chất mà chúng thường
bám vào hệ thống màng bên trong tế bào theo một sự phân bố đặc hiệu và có trật
tự (như các enzyme trong ty thể, lục lạp, ...) làm sao cho trong một dãy các phản
ứng sinh hóa liền nhau, các cơ chất sẽ được "truyền tay" từ enzyme này sang
enzyme khác để chuỗi phản ứng được diễn ra liên tục.
Khi sản phẩm cuối cùng đã được tích lũy, cả chu trình tạo nên nó có thể bị
đóng lại bằng sự ức chế ngược - sản phẩm cuối cùng này đóng vai trò như một
chất ức chế không cạnh tranh với enzyme ở đầu dãy và hoạt tính enzyme bị
phong tỏa.
Mặt khác sự tích tụ cơ chất gây nên một phản ứng đặc hiệu làm mở chu trình -
gọi là sự hoạt hóa khai mào.
Sự điều hòa hoạt động enzyme được thực hiện nhờ thông tin di truyền
trong nhân tế bào. chúng điều chỉnh cho phép enzyme nào sẽ được tổng hợp nên
--> do đó xác định giới hạn trao đổi chất của tế bào.
VI. Nucleic acid
Nucleic acid, vật chất mang thông tin di truyên cua các hệ thống sống, là
môt polymer hinh thành tư các monomer là nucleotide. Nucleic acid gồm hai
loại là desoxyribonucleic acid (DNA) và ribonucleic acid (RNA).
1. Nucleotid
Là đơn vị cấu trúc cơ bản của nucleic acid. Là những phân tử tồn trữ
thông tin dự trữ trong tế bào. Các nucleotid tự do còn đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động tạo năng lượng của tế bào như ATP cần cho nhiều phản ứng
chuyển hóa; GTP cần cho quá trình tổng hợp protein; ...
Môi nucleotide có 3 thành phân cơ bản: nhóm phosphate, đương pentose
(đương 5
carbon) và môt base nitơ.
Các base nitơ thuôc hai nhóm: các purine gồm adenine và guanine, các
pyrimidine gồm thymine, cytosine và uracil.
Các nucleotide đươc nối với nhau băng liên kết phosphodiester tạo thành
chuôi dài. Trình tự chính xác của các base trong DNA và RNA đặc trưng cho
thông tin di truyền của tế bào và cơ thể.
2. DNA - Desoxyribonucleic acid
2.1. Cấu trúc
Phân tử DNA là môt chuôi xoăn kep gồm hai sơi đơn. Môi sơi đơn là
môt chuôi nucleotide. Môi nucleotide45gồm ba thành phân: nhóm phosphate,
đương desoxyribose và môt trong bốn base (adenine, cytosine, guanine và
thymine). Hai sơi đơn kết hơp với nhau nhơ các liên kết hydrogen hinh thành
giưa các base bô sung năm trên hai sơi: A bô sung cho T và C bô sung cho G.
Môi sơi đơn có môt trinh tự đinh hướng với môt đâu 5’phosphate tự do, đâu kia
là 3’ hydroxyl tự do (quy ước là 5’ ® 3’. Hướng cua hai sơi đơn trong chuôi
xoăn kep ngươc nhau, nên đươc goi là hai sơi đối song.
46
Nhưng phân tich cấu truc hiện đại đa cho thấy cấu truc cua DNA không
phải luôn luôn tương ứng với dạng đươc goi là B mà Watson và Crick đa đưa ra.
Do sự tác đông cua các hơp chất có trong lương nho hoăc protein dạng B có thê
chuyên sang dạng A (nen nhiêu hơn) hoăc là dạng Z (xoăn trái). Chung có thê tự
gấp lại (DNA) hoăc xoăn mạnh, vi du môt sơi kep DNA có đô dài là 20 cm đươc
nen trong môt chromosome có kich thước là 5 mm.
Phân tử DNA trong nhiêm săc thê cua sinh vật eukaryote ơ dạng thăng, con
ơ phân lớn tế bào prokaryote (vi khuân) phân tử DNA có dạng vong. Du ơ dạng
nào thi các phân tử DNA đêu tồn tại dưới dạng cuôn chăt. Trong tế bào
eukaryote, DNA kết hơp chăt che với các protein là histone.
1 nm
3,4 nm
0,34 nm
(a) Cấu trúc của DNA (b) Cấu trúc hóa học của một phần DNA
48
Thymine (T)
Adenine (A)
Cytosine (C)
Đường (deoxyribose)
Guanine (G)
50
là nhưng trinh tự không ma hóa mà cung có thê là nhưng trinh tự ma hóa
cho rRNA, tRNA và RNA 5S.
- Các trinh tự duy nhất: là các gen ma hóa cho các protein, có trinh tự đăc
trưng cho tưng gen.
Môt đăc điêm cua phân tử DNA có y nghia rất quan trong đươc sử dung
vào phương pháp lai phân tử. Đó là khả năng biến tinh và hồi tinh. Biến tinh là
hiện tương hai sơi đơn cua phân tử DNA tách rơi nhau khi các liên kết hydrogen
giưa các base bô sung năm trên hai sơi bi đứt do các tác nhân hóa hoc (dung
dich kiêm, formamide, urea) hay do tác nhân vật ly (nhiệt). Sau đó, nếu điêu
chinh nhiệt đô và nồng đô muối thich hơp, các sơi đơn có thê băt căp trơ lại theo
nguyên tăc bô sung, đê hinh thành phân tử DNA ban đâu, đó là sự hồi tinh.
2.2. Tính chất và vai trò của DNA
- Tính chất
DNA có tính đặc trưng bởi số lượng thành phần, trật tự và cách xắp xếp
của các nucleotide trong cấu trúc.
Hàm lượng DNA đặc trưng cho mỗi loài, tỷ lệ A + G/T+ X cũng đặc trưng
cho loài.
Tính ổn định : tính đặc trưng được duy trì ổn định qua các thế hệ tế bào
và cơ thể qua cơ chế nhân đôi, phân ly và tổ hợp qua quá trình gián phân, giảm
phân và thụ tinh.
Hoạt động gián phân là để duy trì DNA giữ được tính đặc trưng và ổn định
qua các
thế hệ.
Sự nhân đôi và phân ly của nhiễm sắc thể và DNA trong giảm phân thành
giao tử
đơn bội sau đó nhờ thụ tinh để khôi phục bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội duy trì
được tính đặc trưng và ổn định của DNA qua các thế hệ của loài sinh sản hữu
tính.
- Vai trò của DNA
+ DNA là nơi lưu giữ các thông tin di truyền - là cơ sở di truyền ở mức
phân tử- tham gia vào cấu trúc của nhiễm sắc thể. Là thành phần không thể thiếu
được trong bất kỳ mọi cấu trúc tế bào nào
+ Truyền đạt thông tin di truyền cho các thế hệ thông qua sự sao chép
(tái bản) phân tử ADN mẹ thành 2 phân tử DNA con giống nhau, và thông qua
sự phân ly của hai DNA con về hai tế bào con khi phân bào.
+ DNA có chức năng phiên mã cho ra các RNA, từ đây sẽ dịch mã để
tạo nên protein đặc thù và tạo nên tính trạng đa dạng của sinh vật.
3. RNA - (Ribonucleic acid)
Phân tử RNA có cấu tạo tương 51tự DNA với ba điêm khác biệt sau:
- Phân tử RNA là chuôi đơn.
- Đương pentose cua phân tử DNA là ribose (C5H10O5) thay vi deoxyribose.
- Thymine, môt trong bốn loại base hinh thành nên phân tử DNA, đươc
thay thế băng uracil trong phân tử RNA.
Trong tế bào có ba loại RNA cơ bản đưọc phân loại theo chức năng, mỗi
loại đều có cấu trúc đặc thù riêng.
52
3.1. RNA thông tin ( mRNA)
Có cấu trúc mạch đơn, chiếm 3-5% tổng số RNA, chịu trách nhiệm mang
thông tin di truyền từ trong nhân ra ngoài.
Ỏ tế bào Eukaryota (tế bào có nhân điển hình) mRNA tính từ lúc sao mã
xong đến khi trở thành mRNA thực sự phải trải, qua một số biến đổi.
- Trong quá trình sao mã, đầu 5’ được gắn với 7-methylguanosine và ba
nhóm phosphat. (GPPP)
- Quá trình sao mã hoàn toàn, đầu 3’ được gắn thêm 100 - 200 A (poly
A)- việc gắn polyA có thể có vai trò giúp RNA ra khỏi nhân.
- Phân tử mRNA khi mới sao mã xong chứa một lượng nucleotid rất lớn -
gồm các đoạn Exon (mang mã thật sự) xen với các đoạn Intron (không mang
mã). Trước lúc ra khỏi nhân, các đoạn Intron được cắt đi và nối các đoạn Exon
lại với nhau trở thành mRNA thực sự.
3.2. RNA vận chuyển (tRNA)
Là các RNA nhỏ, chiếm 10-15% - có nhiệm vụ mang các amino acid đặc
hiệu đến ribosom trong quá trình giải mã.
Sự kết hợp giữa amino acid với tRNA nhờ enzyme đặc hiệu là
amynoacyl-tRNA synthetase (AAS) cũng đặc hiệu cho từng amino acid.
tRNA có cấu trúc không gian hình chĩa ba với một số vòng tạo xoắn theo
nguyên tắc bổ sung và một số vòng không tạo xoắn trên tRNA có các vị trí đặc
biệt sau
53
Hình 1.18. tARN
- Vị trí gắn amino acid- là dãy ACC ở đầu 3’
54
- Vị trí nhận biết mã gọi là vị trí đối mã- nhờ có các base đặc hiệu nên
tRNA nhận biết chính xác đơn vị mã tương ứng trên mRNA theo nguyên tắc bổ
sung.
- Ngoài ra còn một số vị trí đặc hiệu khác là nhánh T(- nhánh ghi nhận Ri-
giúp tRNA định vị trong Ribosom. Nhánh ghi nhận enzyme DHU (chứa
hydrouridine) giúp tRNA chịu tác dụng của enzyme AAS.
Chức năng chủ yếu của tRNA là vận tải amino acid đến Ri và cùng với
mRNA đặt amino acid vào vị trí thích hợp trên chuỗi polypeptit. Mỗi phân tử
tRNA chỉ liên kết tạm thời với một amino acid nhất định nhờ AAS cũng đặc
hiệu cho từng amino acid. Có trên 60 loại tRNA khác nhau mà chỉ có 20 loại
amino acid. Như vậy một loại amino acid có thể được liên kết và vận tải bởi vài
loại tRNA khác nhau. tRNA được tổng hợp từ các gen chuyên trách (tRNA) ở
prokaryota có 40 - 80 gen này, ở Eukaryota có 520 - 1450 gen tùy từng sinh vật.
Các gen này nằm thành từng chùm rải rác trên các nhiễm sắc thể.
3.3. rRNA (RNA riboxom)
rRNA là thành phân cơ bản cua ribosome, vưa đóng vai tro xuc tác và cấu
truc trong sự tông hơp protein.
Tuy theo hệ số lăng rRNA đươc chia thành nhiêu loại: ơ eukaryote có rRNA
28S, 18S,
5,8S và 5S, con các rRNA ơ E. coli có ba loại: 23S, 16S và 5S.
rRNA chiếm nhiêu nhất trong ba loại RNA (80% tông số RNA tế bào),
tiếp đến là tRNA và mRNA chi chiếm 5%. Tế bào sinh vật nhân chuân con chứa
nhưng phân tử RNA nho (small nuclear, snRNA) tham gia vào ghep nối các
exon. Ribosome cua moi tế bào đêu gồm môt tiêu đơn vi nho và môt tiêu đơn vi
lớn. Môi tiêu đơn vi có mang nhiêu protein và rRNA có kich thước khác
nhau.Các tiêu phân cua Ri đươc hinh thành tư hạch nhân rồi đi ra bào tương. Sự
kết hợp giữa hai tiểu phần chỉ xuất hiện khi tham gia quá trình giải mã.
55
56
35
Chương 2
Sinh tổng hợp protein Điều hòa sinh
tổng hợp protein
1. Mã di truyền
Do chỉ có bốn loại nucleotide khác nhau trong mRNA và có đến 20 loại
amino acid trong protein nên sự dịch mã không thể được thực hiện theo kiểu
tương ứng một nucleotide-một amino acid được. Người ta đã giải mã toàn bộ
các amino acid vào những năm đầu của thập kỷ 1960. Mỗi amino acid được
mã hóa bởi ba nucleotide liên tiếp trên DNA (hoặc RNA tương ứng), bộ ba
nucleotide này được gọi là một codon. Với 4 loại nucleotide khác nhau sẽ có
43 = 64 codon khác nhau được phân biệt bởi thành phần và trật tự của các
nucleotide. Trong số này có 3 codon kết thúc là UAA, UAG và UGA có
nhiệm vụ báo hiệu chấm dứt việc tổng hợp chuỗi polypeptide. Trong 61 mã
còn lại có nhiều codon cùng mã hóa cho một amino acid .
- Các codon được đọc theo hướng 5'→3'. Vì vậy chuỗi mã hóa cho
dipeptide NH2- Thr-Arg-COOH được viết là 5'-ACGCGA-3'. Các codon
không chồng lên nhau và vùng dịch mã của mRNA không chứa các khoảng
trống.
2. Các ribosome
Ribosome là bộ máy đại phân tử điều khiển sự tổng hợp protein. Nó
được cấu tạo bởi ít nhất là ba phân tử RNA và hơn 50 protein khác nhau, với
trọng lượng phân tử là 2,5 MDa (megadalton) đối với ribosome của
prokaryote và 4,2 MDa đối với ribosome của eukaryote.
2.1. Thành phần cấu tạo của ribosome
Mỗi ribosome bao gồm một tiểu đơn vị lớn và một tiểu đơn vị nhỏ. Tiểu
đơn vị lớn chứa trung tâm peptidyl transferase chịu trách nhiệm cho việc hình
thành các cầu nối peptide. Tiểu đơn vị nhỏ chứa trung tâm giải mã, là nơi các
tRNA đã được gắn amino acid đọc và giải mã các codon. Ngoài ra còn có
trung tâm gắn các yếu tố ở tiểu đơn vị lớn.
Theo quy ước, các tiểu đơn vị được đặt tên theo tốc độ lắng của chúng
dưới lực ly tâm. Đơn vị đo tốc độ lắng là Svedberg và được viết tắt là S.
Ribosome của prokaryote là ribosome 70S, trong đó tiểu đơn vị lớn là 50S và
tiểu đơn vị nhỏ là 30S. Ribosome của eukaryote là 80S, với tiểu đơn vị lớn là
60S và tiểu đơn vị nhỏ là 40S.
Mỗi tiểu đơn vị đều được cấu tạo bởi các RNA ribosome (rRNA) và các
protein ribosome. Đơn vị Svedberg lại được sử dụng để phân biệt các rRNA
(Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Các thành phần cấu tạo của ribosome.
35
36
phần cấu Tiểu đơn Tiểu đơn Tiểu đơn Tiểu đơn
tạo vị lớn vị nhỏ vị lớn vị nhỏ
(50S) (30S) (60S) (40S)
rRNA rRNA rRNA rRNA rRNA
5S 16S 5,8S 18S
(120 (1540 (160 (1900
Nu) Nu) Nu) Nu)
rRNA rRNA
23S 5S
(2900 (120
Nu) Nu)
rRNA
28S
(4700
Nu)
Protein 34 protein 21 protein 49 protein 33 protein
36
37
Trong quá trình dịch mã, tiểu đơn vị lớn và tiểu đơn vị nhỏ của mỗi
ribosome liên kết với nhau và với mRNA. Sau mỗi vòng tổng hợp protein,
chúng lại rời nhau ra.
2.2. Các vị trí gắn tRNA trên ribosome
Trên ribosome chứa ba vị trí gắn tRNA là vị trí A, P và E. Trong đó:
- A là vị trí gắn aminoacyl-tRNA (tRNA có mang amino acid).
- P là vị trí gắn peptidyl-tRNA (tRNA có mang chuỗi polypeptide).
- E là vị trí gắn tRNA mà được phóng thích sau khi chuỗi polypeptide
được chuyển sang aminoacyl-tRNA.
Mỗi vị trí gắn tRNA được hình thành tại giao diện giữa tiểu đơn vị lớn
và tiểu đơn vị nhỏ. Bằng cách này, các tRNA được gắn vào có thể bắt ngang
qua khoảng cách giữa trung tâm peptidyl transferase của tiểu đơn vị lớn và
trung tâm giải mã của tiểu đơn vị nhỏ. Đầu 3' của tRNA được nằm gần tiểu
đơn vị lớn và vòng đối mã gần tiểu đơn vị nhỏ.
38
39
kết bị phá vỡ giúp hình thành cầu nối peptide để liên kết amino acid với chuỗi
polypeptide đang được tổng hợp.
3.2. Sự nhận diện và gắn amino acid vào tRNA
Sự nhận diện và gắn amino acid vào tRNA tương ứng được thực hiện
bởi một enzyme gọi là aminoacyl-tRNA synthetase.
Quá trình này diễn ra như sau: đầu tiên, amino acid được adenylyl hóa
bằng cách phản ứng với ATP, kết quả tạo thành amino acid có gắn adenylic
acid qua cầu nối ester giàu năng lượng giữa nhóm COOH của amino acid và
nhóm phosphoryl của AMP, đồng thời giải phóng ra pyrophosphate. Sau đó,
amino acid được adenylyl hóa này (vẫn đang gắn với synthetase) phản ứng
tiếp với tRNA. Phản ứng này chuyển amino acid đến đầu 3' của tRNA để gắn
với nhóm OH, đồng thời giải phóng AMP.
Phản ứng tổng hợp của quá trình này như sau:
Amino acid + tRNA + ATP → aminoacyl-tRNA + AMP + PPi
3.3. Tính đặc hiệu của aminoacyl-tRNA synthetase
Hầu hết các tế bào đều có một enzyme synthetase riêng biệt chịu trách
nhiệm cho việc gắn một amino acid vào một tRNA tương ứng (như vậy có tất
cả 20 synthetase). Tuy nhiên, nhiều vi khuẩn có dưới 20 synthetase. Trong
trường hợp này, cùng một synthetase chịu trách nhiệm cho hơn một loại
amino acid.
Sự nhận diện amino acid chính xác là dựa vào kích thước, sự tích điện và
gốc R khác nhau của các amino acid. Sự nhận diện tRNA dựa vào các trình tự
nucleotide khác nhau của tRNA. Tỷ lệ sai sót trong quá trình gắn amino acid
với tRNA tương ứng là khá thấp.
3.4. Phân loại aminoacyl-tRNA synthetase
Có hai loại tRNA synthetase.
- Loại I bao gồm các synthetase gắn các amino acid như Glu, Gln, Arg,
Cys, Met, Val, Ile, Leu, Tyr, Trp vào nhóm 2'-OH.
- Loại II gồm các synthetase gắn các amino acid như Gly, Ala, Pro, Ser,
Thr, His, Asp, Asn, Lys, Phe vào nhóm 3'-OH.
4. Các giai đoạn của quá trình dịch mã
Quá trình dịch mã được bắt đầu bằng sự gắn của mRNA và một tRNA
khởi đầu với tiểu đơn vị nhỏ tự do của ribosome. Phức hợp tiểu đơn vị nhỏ-
mRNA thu hút tiểu đơn vị lớn đến để tạo nên ribosome nguyên vẹn với
mRNA được kẹp giữa hai tiểu đơn vị. Sự tổng hợp protein được bắt đầu tại
codon khởi đầu ở đầu 5' của mRNA và tiến dần về phía 3'. Khi ribosome dịch
mã từ codon này sang codon khác, một tRNA đã gắn amino acid kế tiếp được
đưa vào trung tâm giải mã và trung tâm peptidyl transferase của ribosome.
Khi ribosome gặp codon kết thúc thì quá trình tổng hợp chuỗi polypeptide kết
thúc. Chuỗi này được giải phóng, hai tiểu đơn vị của ribosome rời nhau ra và
sẵn sàng đến gặp mRNA mới để thực hiện một chu trình tổng hợp protein
mới. Quá trình dịch mã được chia thành ba giai đoạn là khởi đầu, kéo dài và
kết thúc.
39
4.1. Giai đoạn khởi đầu
40
4.1.1. Ở prokaryote
*Các yếu tố khởi đầu (IF: initiation factor)
Có các yếu tố khởi đầu xúc tác cho tiểu đơn vị nhỏ trong việc hình
thành phức hợp khởi đầu. Đó là IF1, IF2, IF3. Mỗi yếu tố khởi đầu có tác
dụng như sau:
- IF1 giúp tiểu đơn vị nhỏ gắn vào mRNA và ngăn cản các tRNA gắn
vào vùng thuộc vị trí A trên tiểu đơn vị nhỏ.
40
41
- IF2 là một protein gắn và thủy phân GTP. IF2 thúc đẩy sự liên kết
giữa fMet- tRNAifMet và tiểu đơn vị nhỏ, ngăn cản những aminoacyl-tRNA
khác đến gắn vào tiểu đơn vị nhỏ.
- IF3 ngăn cản tiểu đơn vị nhỏ tái liên kết với tiểu đơn vị lớn và gắn với
các tRNA mang amino acid. IF3 gắn vào tiểu đơn vị nhỏ vào cuối vòng dịch
mã trước, nó giúp tách ribosome 70S thành tiểu đơn vị lớn và tiểu đơn vị nhỏ.
Khi tiểu đơn vị nhỏ đã được gắn ba yếu tố khởi đầu, nó sẽ gắn tRNA
khởi đầu và mRNA. Sự gắn hai RNA này là hoàn toàn độc lập với nhau.
*Bước 1: Tiểu đơn vị nhỏ gắn vào codon khởi đầu
Sự liên kết giữa tiểu đơn vị nhỏ với mRNA được thực hiện thông qua
sự bắt cặp base bổ sung giữa vị trí gắn ribosome và rRNA 16S. Các mRNA
của vi khuẩn có một trình tự nucleotide đặc hiệu gọi là trình tự Shine-
Dalgarno (SD) gồm 5-10 nucleotide trước codon khởi đầu. Trình tự này bổ
sung với một trình tự nucleotide gần đầu 3' của rRNA 16S. Tiểu đơn vị nhỏ
được đặt trên mRNA sao cho codon khởi đầu được đặt đúng vào vị trí P một
khi tiểu đơn vị lớn gắn vào phức hợp.
*Bước 2: tRNA đầu tiên có mang methionine biến đổi đến gắn trực tiếp
với tiểu đơn vị nhỏ
Một tRNA đặc biệt được gọi tRNA khởi đầu đến gắn trực tiếp với vị trí
P (không qua vị trí A). tRNA có anticodon (bộ ba đối mã) có thể bắt cặp với
AUG hoặc GUG. Tuy nhiên tRNA này không mang methionine cũng như
valine mà mang một dạng biến đổi của methionine gọi là N-formyl
methionine. tRNA khởi đầu
fMet
này được gọi là fMet-tRNAi .
Trong hoặc sau quá trình tổng hợp
polypeptide, gốc formyl được loại bỏ bởi
enzyme deformylase. Ngoài ra, aminopeptidase
sẽ loại bỏ methionine cũng như một hoặc hai
amino acid kế tiếp ở đầu chuỗi polypeptide.
*Bước 3: Hình thành phức hợp khởi đầu
70S Bước gắn thêm tiểu đơn vị lớn để tạo
thành phức
hợp khởi đầu 70S diễn ra như sau: khi codon khởi đầu
và fMet-tRNAifMet bắt cặp với nhau, tiểu đơn vị
nhỏ thay đổi hình dạng làm giải phóng IF3. Sự
vắng mặt IF3 cho phép tiểu đơn vị lớn gắn vào
tiểu đơn vị nhỏ đang mang các thành phần trên.
Nhờ có tiểu đơn vị lớn gắn vào, hoạt tính
GTPase của IF2-GTP được kích thích để thủy
phân GTP. IF2-GDP tạo thành có ái lực thấp đối
với ribosome và tRNA khởi đầu dẫn đến sự giải
phóng IF2- GDP cũng như IF1. Như vậy phức
hợp khởi đầu cuối cùng được tạo thành bao gồm
ribosome 70S được gắn tại codon41khởi đầu
của mRNA, với fMet-tRNAifMet tại vị trí P, còn
42
vị trí A đang trống. Phức hợp này sẵn sàng tiếp
nhận một tRNA mang amino acid vào vị trí A
để bắt đầu tổng hợp polypeptide
Hình 2.2. Khởi đầu dịch mã ở
prokaryote.
42
43
4.1.2. Ở Eukaryote
* Bước 1: Sự hình thành phức hợp tiền khởi đầu 43S
Giai đoạn khởi đầu đòi hỏi sự hỗ trợ của hơn 30 protein khác nhau, mặc dù
eukaryote cũng có những yếu tố khởi đầu tương ứng với prokaryote. Các yếu
tố khởi đầu này được ký hiệu là eIF.
44
45
Một khi được gắn vào đầu 5' của mRNA, tiểu đơn vị nhỏ và các yếu tố
liên kết với nó di chuyển dọc theo mRNA theo hướng 5' → 3' cho đến khi gặp
trình tự 5'-AUG-3' đầu tiên mà nó nhận dạng là codon khởi đầu. Codon được
nhận dạng bằng sự bắt cặp base bổ sung giữa anticodon (bộ ba đối mã) của
tRNA khởi đầu và codon khởi đầu. Sự bắt cặp này thúc đẩy phóng thích eIF2
và eIF3 cho phép tiểu đơn vị lớn gắn được vào tiểu đơn vị nhỏ. Sự gắn này
dẫn đến phóng thích các yếu tố khởi đầu còn lại thông qua sự thủy phân GTP
dưới tác dụng của eIF5B. Cuối cùng, Met-tRNAiMet được đưa vào vị trí P của
phức hợp khởi đầu 80S. Lúc này, ribosome ở trong tư thế sẵn sàng tiếp nhận
aminoacyl-tRNA vào vị trí A.
*Những yếu tố khởi đầu dịch mã giữ mRNA eukaryote ở dạng vòng
Ngoài việc gắn vào đầu 5' của mRNA, các yếu tố khởi đầu còn liên kết
chặt chẽ với đầu 3' thông qua đuôi poly(A). Điều này được thực hiện bởi sự
tương tác giữa eIF4F và protein gắn poly(A) bọc bên ngoài đuôi poly(A).
Việc tìm thấy các yếu tố khởi đầu dịch mã có vai trò "vòng hóa" mRNA theo
phương thức phụ thuộc đuôi poly(A) đã giải thích được quan sát trước đây là
một khi ribosome kết thúc sự dịch mã một mRNA mà được vòng hóa thông
qua đuôi poly(A) thì ribosome mới được phóng thích này là ribosome lý
tưởng để tái khởi đầu dịch mã trên cùng mRNA.
4.2. Giai đoạn kéo dài
4.2.1. Bước 1: Aminoacyl-tRNA được đưa đến vị trí A nhờ yếu tố kéo dài EF-Tu
Một khi tRNA đã gắn amino acid thì EF-Tu đến gắn vào đầu 3' của
aminoacyl- tRNA. EF-Tu chỉ có thể gắn với aminoacyl-tRNA khi nó liên kết
với GTP. EF-Tu-GTP đưa aminoacyl-tRNA vào vị trí A của ribosome. Chỉ
phức hợp aminoacyl-tRNA-EF-Tu- GTP nào có anticodon bổ sung với codon
của mRNA tại vị trí A thì mới được giữ lại trên ribosome. Sau đó, EF-Tu
tương tác với trung tâm gắn yếu tố của ribosome nằm trên tiểu đơn vị lớn và
thủy phân GTP, rồi EF-Tu được phóng thích khỏi tRNA và ribosome, để
aminoacyl-tRNA nằm lại tại vị trí A.
45
46
46
47
Aminoacyl-tRNA tại vị trí A được quay vào trung tâm peptidyl
transferase và cầu nối peptide được hình thành. Phản ứng này được xúc tác
bởi peptidyl transferase, ngày nay nó được xác định là rRNA, đặc biệt là
rRNA 23S của tiểu đơn vị lớn. Vì vậy, peptidyl transferase còn được gọi là
ribozyme.
Trong quá trình hình thành cầu nối peptide, cầu nối giữa amino acid và
tRNA ở vị trí A không bị phá vỡ. Đầu 3' của cả hai tRNA được đưa đến gần
nhau và nhóm amine của amino acid ở vị trí A tấn công nhóm carboxyl của
amino acid ở vị trí P. Kết quả là tRNA ở vị trí A mang một dipeptide, trong
khi tRNA ở vị trí P đã bị khử acyl.
Sau đó xảy ra sự chuyển dịch (xem bước 3): peptidyl-tRNA (đang mang
dipeptide) chuyển sang vị trí P, và vị trí A sẵn sàng tiếp nhận một aminoacyl-
tRNA mới. Cầu nối peptide tiếp theo được hình thành theo cách giống hệt
trên, trong đó nhóm amine của amino acid mới liên kết với nhóm carboxyl ở
đầu C tận cùng của chuỗi polypeptide đang tổng hợp. Thực chất, đây là quá
trình chuyển chuỗi polypeptide đang tổng hợp từ peptidyl- tRNA ở vị trí P
sang aminoacyl-tRNA ở vị trí A. Vì vậy, phản ứng tạo cầu nối peptide được
gọi là phản ứng peptidyl transferase.
Như vậy, chuỗi polypeptide được tổng hợp theo chiều từ đầu N đến đầu C.
Trong quá trình này, không có sự thủy phân nucleoside triphosphate.
Năng lượng được cung cấp từ sự phá vỡ cầu nối acyl giàu năng lượng giữa
chuỗi polypeptide đang tổng hợp và tRNA.
4.2.3. Bước 3: Sự chuyển dịch (translocation)
Một khi phản ứng peptidyl transferase xảy ra thì tRNA trong vị trí P
không gắn với amino acid nữa, và chuỗi polypeptide đang hình thành được
liên kết với tRNA trong vị trí
A. Để một vòng kéo dài polypeptide mới xảy ra, tRNA ở vị trí P phải chuyển
đến vị trí E và tRNA ở vị trí A chuyển đến vị trí P. Đồng thời, mRNA phải di
chuyển qua 3 nucleotide để ribosome tiếp xúc với codon tiếp theo. Những sự
di chuyển này được gọi là sự chuyển dịch.
Bước đầu tiên trong chuyển dịch được song hành với phản ứng peptidyl
transferase. Khi chuỗi peptide được chuyển sang tRNA ở vị trí A, đầu 3' của
tRNA này hướng đến vùng vị trí P của tiểu đơn vị lớn, trong khi đầu
anticodon vẫn còn nằm ở vị trí A. Tương tự, tRNA ở vị trí P (mà không còn
gắn chuỗi polypeptide nữa) nằm ở vị trí E của tiểu đơn vị lớn và vị trí P của
tiểu đơn vị nhỏ.
Để hoàn thành sự chuyển dịch phải có sự tác động của một yếu tố kéo dài
gọi là EF-
G. EF-G chỉ gắn vào ribosome khi được liên kết với GTP. Sau khi phản ứng
peptidyl transferase xảy ra, sự thay đổi vị trí của tRNA ở vị trí A đã để lộ vị
trí gắn cho EF-G. Khi EF-G-GTP gắn vào vị trí này, nó tiếp xúc với trung tâm
gắn yếu tố và kích thích thủy phân GTP. Sự thủy phân này làm thay đổi hình
dạng của EF-G-GDP và cho phép nó với tới tiểu đơn vị nhỏ để thúc đẩy sự
chuyển dịch của tRNA ở vị trí A. Khi sự chuyển dịch được hoàn thành,
cấu trúc của ribosome giảm đáng kể47ái lực với EF-G-GDP, điều này cho
48
phép yếu tố kéo dài được phóng thích khỏi ribosome. Cùng với việc tRNA ở
vị trí A chuyển đến vị trí P, tRNA ở vị trí P chuyển đến vị trí E và mRNA
dịch chuyển ba nucleotide. Từ vị trí E, tRNA được phóng thích khỏi
ribosome.
4.2.4. Các yếu tố kéo dài có gắn GDP (EF-Tu-GDP và EF-G-GDP) được đổi
GDP thành GTP trước khi tham gia vào vòng kéo dài mới
EF-Tu và EF-G là những protein xúc tác mà chỉ được sử dụng một lần
đối với một vòng kéo dài bao gồm đưa tRNA vào ribosome, hình thành cầu
nối peptide, và chuyển dịch. Sau khi GTP được thủy phân, hai protein trên
phải giải phóng GDP và gắn với một GTP mới.
48
49
Đối với EF-G, do GDP có ái lực thấp với EF-G hơn GTP nên GDP
nhanh chóng được giải phóng và GTP mới được gắn vào.
Đối với EF-Tu, cần có sự tham gia của yếu tố hoán đổi GTP gọi là EF-
Ts. Sau khi EF-Tu-GDP được phóng thích khỏi ribosome, EF-Ts được gắn
vào EF-Tu và thế chỗ của GDP. Sau đó GTP đến gắn vào phức hợp EF-Tu-
EF-Ts. Phức hợp sau cùng được tách thành EF-Ts tự do và EF-Tu-GTP.
4.3. Giai đoạn kết thúc
4.3.1. Các yếu tố giải phóng kết thúc dịch mã
Chu kỳ gắn aminoacyl-tRNA của ribosome, sự hình thành cầu nối
peptide, và sự chuyển dịch xảy ra liên tục cho đến khi một trong ba codon kết
thúc vào vị trí A. Các codon này được nhận diện bởi các yếu tố giải phóng
(RF: release factor) (Hình 6.5).
Có hai loại yếu tố giải phóng:
- Các yếu tố giải phóng loại I nhận diện codon kết thúc và thúc đẩy sự
thủy phân để tách chuỗi polypeptide ra khỏi peptidyl-tRNA tại vị trí P.
Prokaryote có hai yếu tố giải phóng loại I là RF1 và RF2, trong đó RF1 nhận
diện codon kết thúc UAG và RF2 nhận diện UGA, còn UAA được nhận diện
bởi cả RF1 và RF2. Eukaryote chỉ có một yếu tố giải phóng gọi là eRF1 nhận
diện được cả ba loại codon kết thúc.
- Các yếu tố giải phóng loại II kích thích sự tách yếu tố giải phóng loại I
ra khỏi ribosome sau khi chuỗi polypeptide được giải phóng. Chỉ có một yếu
tố giải phóng loại II, được gọi là RF3 ở prokaryote và eRF3 ở eukaryote. Yếu
tố giải phóng loại II được điều hòa bởi GTP.
50
51
Yếu tố giải phóng loại II là một protein gắn GTP nhưng có ái lực với
GDP cao hơn GTP. Vì vậy, phần lớn RF3 được gắn với GDP. RF3-GDP gắn
với ribosome theo một phương thức phụ thuộc sự hiện diện của yếu tố giải
phóng loại I. Sau khi yếu tố giải phóng loại I kích thích sự phóng thích chuỗi
polypeptide, xảy ra một sự thay đổi hình dạng ribosome, và yếu tố giải phóng
loại I kích thích RF3 hoán đổi GDP thành GTP. Sự gắn GTP vào RF3 dẫn đến
sự hình thành tương tác ái lực cao với ribosome và đẩy yếu tố giải phóng loại
I ra khỏi ribosome. Sự thay đổi này cho phép RF3 liên kết với trung tâm gắn
yếu tố của tiểu đơn vị lớn. Sự tương tác này kích thích thủy phân GTP. Vì
không còn yếu tố loại I nữa nên RF3-GDP có ái lực thấp với ribosome và bị
phóng thích ra ngoài.
4.3.3. Sự tái tuần hoàn của ribosome
Sau khi phóng thích chuỗi polypeptide và các yếu tố giải phóng,
ribosome vẫn còn gắn với mRNA cùng với hai tRNA tại vị trí P và vị trí E.
Để ribosome tham gia vào quá trình tổng hợp polypeptide mới, tRNA và
mRNA phải đi khỏi ribosome và hai tiểu đơn vị của ribosome phải rời nhau
ra. Tập hợp những sự kiện như vậy gọi là sự tái tuần hoàn ribosome
(ribosome recycling).
Ở prokaryote, có một yếu tố gọi là yếu tố tái tuần hoàn ribosome (RRF:
ribosome recycling factor). RRF gắn vào vị trí A, nó bắt chước tRNA. RRF
lôi kéo EF-G đến ribosome và EF-G kích thích giải phóng những tRNA tại vị
trí P và E. Sau đó, EF-G và RRF được phóng thích khỏi ribosome cùng với
mRNA. IF3 có thể tham gia vào sự giải phóng mRNA đồng thời nó cũng cần
cho sự tách rời hai tiểu đơn vị của ribosome. Kết quả tạo ra tiểu đơn vị nhỏ
gắn IF3 và tiểu đơn vị lớn tự do. Ribosome bây giờ có thể tham gia vào vòng
dịch mã mới.
52
Operon 44
Gen
điều
hòa
Phiên mã Phiên mã
Dịch mã Dịch mã
Hình 2.6. Phương thức chung điều hòa biểu hiện gen ở
prokaryote.
5.2. Cấu trúc của operon
Operon là đơn vị phiên mã gồm ít nhất một promoter và mRNA ở bước
tiếp theo để mã hóa cho các trình tự của một hay nhiều chuỗi polypeptide.
Tuy nhiên, operon có thể có một hay nhiều điểm điều hòa khác với promoter.
Các gen không chịu sự điều hòa do tác động môi trường, tạo sản phẩm thường
xuyên, được gọi là các gen cấu trúc. Số lượng sản phẩm của các gen này có
thể dao động phụ thuộc vào ái lực tương đối của các promoter của chúng đối
với RNA polymerase. Các promoter có ái lực mạnh (strong promoter) tạo ra
nhiều sản phẩm của gen hơn các promoter có ái lực yếu. Các gen mà sản
phẩm protein của chúng được tổng hợp đáp lại với các nhân tố môi trường,
thường được điều khiển bởi một hay nhiều protein điều hòa. Trình tự DNA
bên trong operon, nơi mà protein ức chế gắn vào, được gọi là operator (điểm
điều hành). Việc gắn protein ức chế lên operator ngăn cản sự phiên mã của tất
cả các gen cấu trúc trên cùng một operon. Sự kiểm soát như vậy đối với với
gen gọi là kiêm soát âm. Các operon của vi khuẩn thường tạo ra các mRNA
đa gen, nhưng mRNA của eukaryote chỉ một gen.
Các protein cần thiết biểu hiện gen được gọi là chất hoạt hóa. Chúng có
thể gắn với các điểm khởi sự nằm bên trong của promoter của operon hay
điểm tăng cường hoặc có thể gắn ở những trình tự xa operon. Việc gắn của
protein điều hòa vào điểm khởi đầu (initiator) hay enhancer, kích thích sự
53
phiên mã của các gen cấu trúc, được gọi là cơ chế kiểm soát dương. Sự kích
thích để các gen điều hòa phản ứng có thể là từ các phân tử tương đối nhỏ như
đường, amino acid đến các phân tử lớn hơn như các phức hợp hormone
steroid và các protein thể nhận (receptor). Chất làm cho gen phiên mã được
gọi là chất cảm ứng, có tác động ngược với chất kìm hãm. Các gen cảm ứng
thường tham gia vào các phản ứng thoái dưỡng (catabolic reaction), như phân
hủy các polysacaride thành đường đơn. Các gen ức chế thường tham gia vào
các phản ứng biến dưỡng thực hiện việc tổng hợp các chất như amino acid từ
các tiền chất đơn giản hơn.
5.3. Điều hòa thoái dưỡng: Kiểm soát âm-cảm ứng
Trong thoái dưỡng, các chất thức ăn được phân hủy dễ tạo năng lượng
hoặc các chất cần thiết cho quá trình tổng hợp. Cơ chế điều hòa ở đây là sự có
mặt của cơ chất (ví dụ lactose) dẫn tới tổng hợp các enzyme phân hủy.
Ví dụ điển hình cho trường hợp này là operon lactose của E. coli. b-
galactosidase là enzyme có chức năng đôi. Chức năng đầu tiên của nó là thoái
dưỡng lactose thành glucose
54
45
và galactose. Chức năng thứ hai của nó là chuyển liên kết 1-4 của glucose và
galactose thành liên kết 1-5 của allolactose. Bình thường enzyme này không
hiện diện ở nồng độ cao trong tế bào, khi vắng mặt lactose trong môi trường.
Ngay sau khi cho lactose vào môi trường nuôi khi không có glucose, enzyme
này bắt đầu được tạo ra. Sự vận chuyển lactose xuyên qua màng tế bào có
hiệu quả nhờ protein vận chuyển galactoside permease. Protein cũng xuất
hiện với nồng độ cao khi có lactose trong môi trường.
Sự điều hòa của operon lactose còn phụ thuộc vào nồng độ glucose trong
môi trường. Mức glucose này lại kiểm soát mức nội bào phân tử nhỏ c-AMP
(cyclic adenosine monophosphat), là chất bắt nguồn từ ATP và làm tín hiệu
báo động cho tế bào. Tế bào có xu hướng sử dụng glucose hơn là lactose để
làm nguồn carbon vì glucose được biến dưỡng trực tiếp cung cấp carbon và
tạo năng lượng. Các enzyme biến dưỡng glucose thuộc loại cấu trúc và tế bào
tăng trưởng tối đa với nguồn glucose. Khi nguồn glucose cạn, tế bào phản ứng
lại bằng cách tạo ra c-AMP. Việc tăng nồng độ c-AMP trong tế bào gây nên
hàng loạt sự kiện, trong sự hiện diện của lactose, dẫn đến sự phiên mã các gen
cấu trúc của operon lactose.
5.3.1. Cấu trúc của operon lactose
Hệ thống lactose (lactose system) bình thường gồm có gen điều hòa (i
hoặc R) và operon mang trình tự promoter (P) locus operator (O) và 3 gen cấu
trúc cho b- galactosidase (Z), permease (Y) và transacetylase (A). Nhiều đột
biến ở các locus này đã được phát hiện.
5.3.2. Hoạt động của hệ thống
- Điều kiện cảm ứng (có lactose). Lactose được chuyển vào tế bào rất
yếu vì chỉ có vài phân tử permease làm việc. Khi vào trong tế bào, một số
lactose (liên kết b-1,4) được chuyển thành allolactose (liên kết b-1,6) nhờ b-
galactosidase. Allolactose là chất cảm ứng, nó gắn vào protein kìm hãm và
gây biến đổi cấu hình tạo phức hợp allolactose-repressor. Phức hợp này mất
khả năng gắn operator. Lúc này operon được mở, RNA polymerase bắt đầu
phiên mã các gen cấu trúc. Toàn bộ sự kiện diễn ra như trên hình 2.7.
- Điều kiện không cảm ứng (không có lactose). Gen điều hòa của operon
thường xuyên tổng hợp protein ức chế (repressor protein) ở mức thấp, vì nó
có promoter ít hiệu quả. Sự tổng hợp các protein này bị tác động do nồng độ
lactose trong tế bào. Ngược lại, promoter bình thường của operon lac gắn với
RNA polymerase rất có hiệu quả. Khi không có đường lactose protein kìm
hãm có hoạt tính (tạo ra do i+ hay R) gắn vào promoter hay “đọc” trình tự
operator vì protein kìm hãm chiếm đoạn này. Như vậy, sự phiên mã của tất cả
các gen cấu trúc của operon lac bị dừng.
Số lượng permease tăng nên lactose vào tế bào với số lượng lớn và được
phân hủy bởi b-galactosidase. Khi lactose được sử dụng cạn, các protein
repressor gắn trở lại vào operator làm operon bị đóng; sự phiên mã các gen
cấu trúc bị dừng.
Bản thân gen điều hòa R chỉ có một promoter (Pi) và gen cấu trúc của
protein kìm hãm. Promoter này yếu, khi các protein kìm hãm có số lượng
cao, nó bị các protein này gắn vào45làm dừng phiên mã.
46
(b) Có lactose
Phiên mã và Phiên mã và
dịch mã dịch mã
47
48
+ Đột biến thay thế cặp base (base substitution)
+ Đột biến thêm bớt cặp base (base insertion - base delection)
Các đột biến này có thể phát sinh do ảnh hưởng của môi trường như ảnh
hưởng của các tác nhân gây đột biến.
1.1. Đột biến thay thế cặp base
Kiểu đột biến đơn giản nhất là thay thế một base, trong đó một cặp
nucleotide trong gene được thay thế bằng một cặp nucleotide khác.
Ví dụ: A được thay thế bằng G trong sợi DNA. Sự thay thế này tạo ra sự cặp
base G-
T. Ở lần sao chép tiếp theo tạo ra cặp G-C trong một phân tử DNA con và cặp
A-T ở phân tử DNA con kia.
Tương tự, đột biến thay thế A bằng T trên một sợi, tạo ra sự kết cặp tạm
thời T-T. Kết quả sao chép tạo ra T-A trên một phân tử DNA con và A-T trên
phân tử DNA con kia. Trong trường hợp hợp này, cặp base T-A là đột biến và
cặp A-T không đột biến. Nếu sợi gốc DNA không đột biến có trình tự 5'-
GAC-3', trên sợi đột biến có trình tự 5'-GTC-3' và sợi kia không đột biến có
trình tự 5'-GAC-3'.
Đột biến thay thế cặp base được chia làm hai loại:
+ Đột biến đồng hoán (transition mutations): Nếu một đột biến mà bazơ
pyrimidine được thay thế bằng một pyrimidine và một purine thay bằng một
purine.
Đột biến đồng hoán có thể là:
T ® C hoặc C ® T
(Pyrimidine ®
pyrimidine)
A ® G hoặc G ®
A (purine ®
purine)
Đột biến đảo hoán (Transversion): Đột biến làm thay một pyrimidine
thành một purine hay một purine được thay thế bằng một pyrimidine. Các đột
biến đảo hoán:
T ® A, T ® G, C ® A hoặc C
® G (Pyrimidine ® purine)
A ® T, A ® C. G ® T hoặc G
® C (Purine ® pyrimidine)
Như vậy có thể có 4 thay thế kiểu đột biến đồng hoán và có đến 8 thay thế
kiểu đột biến đảo hoán. Nếu các thay thế này xảy ra với ngẫu nhiên xác suất
như nhau, sẽ có tỷ lệ đột biến: 1 đồng hoán : 2 đảo hoán. Tuy nhiên trong thực
tế, đột biến thay thế base có xu hướng nghiêng về đột biến đồng hoán, cho
nên trong số các đột biến thay thế base tự phát thì tỷ lệ xảy ra đột biến là: 2
đồng hoán : 1 đảo hoán
1.2. Đột biến thêm hoặc bớt base48(base-pair addition/deletion), còn gọi
49
là indel mutation (insertion-deletion). Trường hợp đơn giản nhất của đột biến
này là thêm hoặc mất một cặp base đơn. Đôi khi đột biến làm thêm hoặc mất
đồng thời nhiều cặp base.
Hậu quả của đột biến điểm đến cấu trúc và sự biểu hiện của gene
Đột biến điểm xuất hiện trong vùng mã hóa chuỗi polypeptide của gene (a
polypetide- coding part of a gene), chẳng hạn đột biến thay thế base đơn có
thể gây nhiều hậu quả, nhưng tất cả đều có tác động lên mã di truyền theo 2
hướng: làm thoái hóa mã di truyền hoặc xuất hiện mã kết thúc quá trình dịch
mã. Có các dạng:
Đột biến đồng nghĩa (synonymous mutations): đột biến thay đổi một
codon mã hóa acid amine thành codon mới mã hóa cho cùng acid amin đó.
Đột biến đồng nghĩa cũng có thể xem là đột biến im lặng (silent mutations)
49
50
Đột biến nhầm nghĩa (missense mutations), đôi khi còn gọi là đột biến
không đồng nghĩa (nonsynonymous mutations): codon mã hóa cho một acid
amin này bị thay đổi thành codon mã hóa cho một acid amin khác.
Đột biến vô nghĩa (nonsense mutations): codon mã hóa cho một acid amin
bị thay đổi thành codon kết thúc dịch mã (translation termination/stop codon).
Mức độ ảnh hưởng của đột biến nhầm nghĩa và vô nghĩa lên chuỗi
polypeptide khác nhau tùy trường hợp.
Nếu đột biến nhầm nghĩa thay thế một acid amin này bằng một acid amin
khác tương tự về mặt hóa học, được xem là đột biến thay thế bảo thủ
(conservative substitution). Sự thay đổi này hầu như ít ảnh hưởng đến cấu trúc
và chức năng protein. Ngược lại, nếu thay thế bằng một acid amin khác về
phương diện hóa học gọi là nonconservative substitution, hầu hết đều gây ra
sự thay đổi lớn ở cấu trúc và chức năng protein.
Đột biến vô nghĩa sẽ dẫn đến sự kết thúc dịch mã sớm. Vì vậy chúng gây
ra hậu quả tương ứng trên chức năng protein. Nếu đột biến vô nghĩa xảy ra
càng ở gần đầu 3' của khung đọc mã, kết quả ít ảnh hưởng đến protein. Tuy
nhiên nhiều đột biến vô nghĩa ở vùng này vẫn tạo ra các sản phẩm hoàn toàn
bị mất hoạt tính.
Giống với đột biến vô nghĩa, đột biến thêm bớt base gây hậu quả trên
trình tự polypetide kể từ điểm bị đột biến (hình 8.1). Trình tự trên mRNA
được đọc theo từng khung gồm ba base (codon) một lúc. Mất hoặc thêm base
sẽ làm thay đổi khung đọc trong quá trình dịch mã từ điểm bị đột biến cho
đến kết thúc theo khung mới. Vì vậy loại đột biến này được gọi là đột biến
dịch khung (frameshift mutations). Đột biến này tạo ra trình tự acid amin kể
từ điểm bị đột biến cho đến kết thúc khác với trình tự acid amin gốc. Đột biến
dịch khung gây ra sự mất hoàn toán cấu trúc và chức năng của protein bình
thường.
Trường hợp đột biến xảy ra ở trình tự điều hòa và các trình tự không mã
hóa khác (hình8.1). Những phần đó của gene không trực tiếp mã hóa cho
protein mà chứa nhiều điểm bám DNA chủ yếu cho protein xen vào, đó là
những trình tự không nhạy cảm cho sự biểu hiện của gene hoặc cho hoạt tính
của gene.
Ở mức độ DNA, những điểm mất đi (docking) gồm những điểm mà RNA
polymerase và những nhân tố gắn kết của nó bám vào, cũng như những điểm
mà protein điều hòa phiên mã đặc trưng gắn vào. Ở mức độ RNA, những
docking quan trọng thêm vào gồm điểm bám của ribosom (ribosome-binding
site) trên mRNA vi khuẩn, những điểm nối đầu 5' và 3' để gắn các exon ở
eukaryote và các điểm có vai trò cho điều hòa dịch mã và định vị mRNA đến
vùng đặc biệt trong tế bào. Nhìn chung hậu quả chức năng của bất kì đột biến
điểm nào ở vùng như thế đều phụ thuộc vào việc làm gián đoạn (hoặc tạo ra)
một điểm bám. Đột biến làm gián đoạn ở những điểm đó có khả năng làm
thay đổi phần biểu hiện của gene dựa vào sự thay đổi số lượng sản phẩm được
biểu hiện ở một thời điểm nhất định hoặc ở một mô nhất định. hay bằng sự
thay đổi phản ứng với những tín hiệu (cue) của môi trường nhất định. Ngược
lại, đột biến ở một vài điểm bám có50thể hoàn toàn phá hủy một giai đoạn
51
càn cho sự biểu hiện bình thường của gene, như điểm bám của mRNA
polymerase hoặc là nhân tố splicing. Vì vậy nó làm bất hoạt sản phẩm của
gene hoặc ngăn cản sự hình thành sản phẩm.
Cần phân biệt giữa những thay đổi xảy ra của một đột biến gene đó là sự
thay đổi trình tự DNA của gene với sự thay đổi ở mức độ kiểu hình. Nhiều
đột biến điểm trong triình tự không mã hóa làm ít thay đổi hoặc không thay
đổi trên kiểu hình như đột biến giữa điểm bám DNA cho protein điều hòa
hoặc thay đổi những điểm khác trong gene làm thay đổi chức năng của chúng.
51
49
Chương 3
ĐẠI CƯƠNG VỀ CẤU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG CỦA TẾ BÀO
1. Hình dạng tế bào
Tế bào thường có hình dạng tương đối cố định và đặc trưng cho mỗi loại
tế bào. Ví dụ: tinh trùng, tế bào trứng, tế bào thần kinh, hồng cầu .v.v....
49
50
Trong môi trường lỏng tế bào có dạng hình cầu (bạch cầu trong máu). Đa
số tế bào động vật và thực vật có dạng hình khối đa giác, thường là hình khối 12
mặt; có loại phân nhánh.
2. Kích thước của tế bào
Kích thước của tế bào rất khác nhau đối với các loài khác nhau. Nói chung
tế bào có độ lớn trung bình vào khoảng 3-30 (m. Nhưng có những tế bào rất lớn
có thể nhìn thấy, sờ mó được như trứng gà, trứng vịt... Tế bào có kích thước lớn
nhất là trứng đà điểu có đường kính đạt tới 17,5 cm. Trái lại đa số tế bào vi
khuẩn có kích thước từ khoảng 1-3 (m.
Ngày nay người ta đã khám phá ra một loại tế bào có thể xem là nhỏ nhất
đó là tế bào Mycoplasma laidlawi có đường kính 0,1 (m. (1000 Ao), chỉ lớn hơn
nguyên tử Hydro 1000 lần và gần bằng kích thước của siêu vi khuẩn. Trong nó
chỉ chứa khoảng 1000 hoặc chục nghìn các đại phân tử sinh học và tổng hợp vài
chục các men khác nhau.
Thể tích của tế bào cũng rất thay đổi ở các dạng khác nhau. Tế bào vi
khuẩn có thể tích khoảng 2,5 (m3 ( micro khối). Đối với các tế bào của các mô ở
người ( trừ một số tế bào thần kinh) có thể tích vào khoảng từ 200 đến 15.000
(m3. Thường thể tích của các loại tế bào là cố định và không phụ thuộc vào thể
tích chung của cơ thể. Ví dụ : Tế bào thận, gan của bò, ngựa, chuột... đều có thể
tích như nhau. Sự sai về kích thước của cơ quan là do số lượng tế bào chứ không
phải do kích thứơc tế bào.
3. Số lượng tế bào
Số lượng tế bào trong các cơ thể khác nhau thì rất khác nhau. Sinh vật đơn
bào cơ thể chỉ có 1 tế bào. Các sinh vật đa bào trong cơ thể có từ vài trăm tế bào
như bọn luân trùng có 400 tế bào, đến hàng tỷ tế bào. Ví dụ cơ thể người có
6.1014 tế bào. Chỉ tính riêng hồng cầu trong máu người cũng đã đạt tới 23.000
tỷ.
Tuy nhiên cơ thể đa bào dù có số lượng tế bào lớn đến bao nhiêu cũng
được phát triển từ 1 tế bào khởi nguyên gọi là hợp tử.
4. Các dạng tế bào và cấu trúc đại cương
Trong thực tế không tồn tại một dạng tế bào chung nhất cho tất cả các cơ
thể sinh vật mà tế bào phân hóa ở nhiều dạng khác nhau trong quá trình tiến hóa
của sinh vật. Ngày nay nhờ kỹ thuật kính hiển vi điện tử, người ta đã xác lập
được 2 dạng tổ chức tế bào:
-Dạng có nhân nguyên thủy, có tổ chức còn nguyên thủy, chưa có màng nhân
(procaryota).
- Dạng tế bào có nhân chính thức (Eukaryota).
4.1. Cấu trúc của các tế bào nhân nguyên thủy ( procaryota)
Thuộc loại tế bào nhân nguyên thủy có vi khuẩn (Bacteria) và thanh tảo
(Cyanophyta). Tế bào của chúng có kích thước từ 0,5 đến 3(, thiếu màng nhân,
thiếu các bào quan chính thức như lục50lạp, thể lizo, phức hệ Golgi... Ở bọn
51
này thông tin di truyền được tích trong một nhiễm sắc thể độc nhất gồm mạch
xoắn kép ADN dạng vòng, NST này không chứa các protid kiềm. Thiếu bộ máy
phân bào và hạch nhân.
Vách tế bào bao phía ngoài màng sinh chất tạo nên cái khung cứng, vững
chắc cho tế bào. Nó có nhiệm vụ bảo vệ sự tác động cơ học đến tế bào, giữ và cố
định hình dạng của tế bào và quan trọng hơn cả là chống chịu các tác nhân bất
lợi nhất là áp suất thẩm thấu của môi trường bên ngoài. Độ vững chắc của vách
tế bào có được là nhờ các tính chất của peptidoglucan (còn gọi là murin) chỉ có ở
prokaryota. Peptidoglucan được cấu tạo từ 2 loại
51
52
đường gắn với 1 peptid ngắn với 2 acid amin chỉ có ở vách tế bào vi khuẩn. Các
đường và các peptid kết nối với nhau thành 1 đại phân tử bao toàn bộ màng tế
bào.
Bảng 3.1. So sánh giữa tế bào Prokaryota và Eukaryota
Prokaryota Eukaryota
Nhân chưa có màng bọc Nhân có màng bọc
Số lượng NST : 1, Không có Histon NST > 1 có Histon
Các bào quan :
- Ribosom 70 80
- Ty thể s s
- Lục lạp 0 có
- peroxisom 0 có hoặc
- lysosom 0 không có
- golgi 0 c
- Lưới NSC 0 ó
- Không bào thật 0 c
0
ó
c
ó
có hoặc không
Màng tế bào:
- Xellulo 0 có hoặc
không
- Peptidoglycan có
0
53
54
Các riboxom nằm rải rác trong tế bào chất chúng sẽ gắn lên mARN để
tổng hợp protein. Phần lớn vi khuẩn quang hợp chứa Chlorophyl gắn với màng
hay các phiến mỏng (lamellae).
Một số vi khuẩn có các cấu trúc lông nhỏ gọi là tiêm mao (flagella) dùng để
bơi.
Tế bào procaryota phân bố khắp nơi trên quả đất. Chúng sinh trưởng rất
nhanh, chu kỳ một thế hệ ngắn, đa dạng về sinh hóa và rất mềm dẻo về di
truyền.
4.2. Cấu trúc đại cương của tế bào nhân thực ( Eukaryota)
Tế bào của tất cả các cơ thể còn lại như: tảo, nấm, đơn bào, tế bào thực
vật và động vật thuộc loại tế bào có nhân chính thức. Ở bọn này nhân được bọc
trong màng nhân. Trong tế bào chất hệ thống màng rất phát triển như: mạng lưới
nội chất, hệ thống Golgi, cùng các bào quan có màng như ty thể, lạp thể, thể
lizoxom, ... Nhân chứa hạch nhân và NST. Nhiễm sắc thể luôn có cấu tạo gồm
ADN và histon. Quá trình phân bào rất phức tạp nên cần có bộ máy phân bào.
Giữa hai giói động vật và thực vật có cấu trúc tế bào vừa có những điểm
giống nhau vừa có những điểm khác nhau.
Bảng 3.1. So sánh giữa tế bào động vật và tế bào thực vật
55
56
56
57
57
58
59
60
màng luôn luôn có xu hướng kết dính các phân tử lipit với nhau để cho đầu kỵ
nước ấy khỏi tiếp xúc với nước, và lớp phân tử kép lipit còn khép kín lại tạo
thành một cái túi kín để cho tất cả các đầu kỵ nước được dấu kín khỏi nước. Nhờ
tính chầt này mà màng lipit có khả năng tự động khép kín, tái hợp nhanh mỗi khi
bị mở ra, xé ra hay tiếp thu một bộ phận màng lipit mới vào màng.
60
61
Màng sinh chất của Eukaryota bao giờ
cũng có thêm một lipit steroit trung tính; Cholesterol. Màng Prokaryota không
có cholesterol. Cholesterol là một loại phân tử lipit nằm xen kẽ các photpholipit
và rải rác trong hai lớp lipit của màng. Cholesterol chiếm từ 25 đến 30% thành
phần lipit màng tế bào và màng tế bào là loại màng sinh chất có tỉ lệ Cholesterol
cao nhất, màng tế bào gan tỉ lệ Cholesterol còn cao
61
62
hơn : 40% trên lipit toàn phần. Thành phần còn lại của lipit màng là glycolipit
(khoảng 18%) và acid béo kỵ nước (khoảng 2%).
- Các phân tử protein màng tế bào :
Màng lipit đảm nhiệm phần cấu trúc cơ bản còn các chức năng đặc hiệu
của màng thì phần lớn do các phân tử protein màng đảm nhiệm. Cho đến nay
người ta đã phát hiện trên 50 loại protein màng (cùng có trên một màng plasma
duy nhất). Tỉ lệ P/L (protein/lipit) là xấp xỉ 1 ở màng tế bào. Một số tế bào đặc
biệt thì tỉ lệ này còn cao hơn : P/L màng tế bào gan =1,4, của màng tế bào ruột
P/L=4,6.
+Protein xuyên màng :
Gọi là xuyên màng vì phân tử protein có một phần nằm xuyên suốt màng
lipit và hai phần đầu của phân tử thì thò ra hai phía bề mặt của màng.
Phần xuyên suốt màng, tức
phần đầu trong màng lipit là phần
kỵ nước, vẫn là hình sợi nhưng có
thể chỉ xuyên qua màng một lần,
nhưng cũng có loại lộn vào lộn ra để
xuyên qua màng nhiều lần, có khi
tới 6, 7
lần. Các
phần thò
ra hai
phía bề
mặt
màng đều
ưa nước
và nhiều
loại phân
tử
protein màng có đầu thò về phía bào
-
tương là nhóm cacboxyl COO mang điện âm khiến chúng đẩy nhau và cũng vì
vậy mà các phân tử protein xuyên màng tuy có di động nhưng vẫn phân bố đồng
đều trong toàn bộ màng tế bào (tính chất này thay đổi khi độ pH thay đổi).
Protein xuyên màng cũng có khả năng di động kiểu tịnh tiến trong
màng lipit. Protein xuyên màng chiếm 70% protein màng tế bào.
Về ví dụ protein xuyên màng có thể kể:
-Glycophorin : một loại protein xuyên màng có phần kỵ nước xuyên màng
ngắn. Chuỗi polypeptit thò ra ngoài màng có mang những nhánh oligosaccarit và
cả những nhánh polysaccarit, giàu acid sialic. Glycophorin chiếm phần lớn các
protein xuyên màng và là thành phần chính mang các nhánh oligosaccarit. Các
oligosaccarit này tạo thành phần lớn các cacbonhydrat của bề mặt tế bào.
Chuỗi polypeptit có đuôi62cacboxyl ưa nước quay và trong bào
63
tương, có thể tham gia vào việc liên kết với các protein khác bên trong màng.
Các glycophorin có thể mang các tên phân tử khác nhau. Chức năng của chúng
cũng đa dạng như chức năng của lớp áo tế bào.(sẽ nói rõ hơn ở phần sau)
-Protein Band3 xuyên màng: loại này được nghiên cứu đầu tiên ở màng
hồng cầu. Đó là một phân tử protein dài, phần kỵ nước xuyên trong màng rất
dài, lộn vào lộn ra tới 6 lần. Phần thò ra trên bề mặt ngoài màng tế bào cũng liên
kết với các oligosaccarit. Phần xuyên màng phụ trách vận chuyển một số anion
qua màng. Phần thò vào bào tương gồm hai vùng:
63
64
vùng gắn với Ankyrin, một trong các loại protein thành viên của hệ lưới protein
lát trong màng, và vùng gắn với các enzym phân ly glucoza và gắn với
hemoglobin. Với vai trò vận chuyển anion Band3 như là một phân tử độc lập.
Khi gắn với Ankyrin để níu hệ lưới protein vào màng lipit thì Band3 như là có
đôi.
Về protein xuyên màng ngày càng có thêm các ví dụ mà hay gặp là protein
enzym vận tải. Tên của chúng phụ thuộc vào vật chất mà chúng vận tải qua
màng.
- Protein màng ngoại vi
Loại này chiếm khoản 30% thành phầìn protein màng gặp ở mặt ngoài
hoặc mặt trong tế bào. Chúng liên kết với đầu thò ra hai bên màng của các
protein xuyên màng. Kiểu liên kết này được gọi là hấp phụ, không phải là liên
kết cộng hóa trị mà bằng lực tĩnh điện hay bằng các liên kết kỵ nước.
Lấy ví dụ ở hồng cầu: Fibronectin là
protein ngoại vi, ở phía ngoài màng còn
actin, spectrin, ankyrin, Band4.1 thì ở phía
trong màng. Tất cả 4 protein ngoại vi này
làm thành một mạng lưới protein lát bên
trong màng hồng cầu bảo đảm tính bền và
hình lõm hai mặt cho màng hồng cầu.
Spectrin là những phân tử sợi hình xoắn và
là phần sợi của lưới. Lưới gồm các mắt
lưới, mỗi mắt lưới là một hình 6 cạnh.
Cạnh là spectrin. Đỉnh góc có hai loại xen
kẽ nhau : loại thứ nhất gồm actin và Band
4.1, loại thứ hai gồm hai phân tử ankyrin.
Mỗi phân tử ankyrin liên kết với vùng
gắn với ankyrin của phân tử protein xuyên
màng Band3 (Band3 liên kết trực tiếp với
ankyrin
chỉ chiếm khoảng 20% tổng số Band3 và như vậy lưới protein làm bằng protein
ngoaüi vi và níu vào màng bằng protein xuyên màng.
Nhiều protein màng ngoại vi khác cũng đã được phát hiện ở phía ngoài
màng, chúng tham gia cùng các oligosaccarit có mặt trong lớp áo tế bào hoặc
dưới lớp áo tế bào, đõng các vai trò khác nhau.
Như trên đã dẫn, Fibroneotin là một protein màng ngoại vi bám ở mặt
ngoài màng tế bào. Protein này gặp ở hầu hết các động vật từ san hô cho đến
người, ở các tế bào sợi. tế bào cơ trơn, tế bào nội mô...
Nhờ Fibronectin mà tế bào bám dính dễ dàng với cơ chất của nó.
Điều đáng chú ý là: tế bào ung thư có tiết ra protein này nhưng không giữ
được nó trên bề mặt của màng tế bào: sự mất khả năng bám dính tạo điều kiện
cho tế bào ung thư di cư.
64
- Cacbonhydrat màng tế bào
65
Cacbonhydrat có mặt ở màng tế bào dưới dạng các oligosaccarit. Các
oligosaccarit gắn vào hầu hết các đầu ưa nước của các protein màng thò ra bên
ngoài màng tế bào. Đầu ưa nước của khoảng 1/10 các phân tử lipit màng (lớp
phân tử ngoài) cũng liên kết với các oligosaccarit. Sự liên kết với các
oligosaccarit được gọi là sự glycoxyl hóa biến protein thành glycoptotein, lipit
thành glycolipit.
Các chuỗi cacbonhydrat thường rất quan trọng đối với sự gấp protein để
tạo thành cấu trúc bậc ba và do đó chúng làm cho protein được bền và có vị trí
chính xác trong tế bào.
65
66
Nói chung, chúng không có vai trò trong chức năng xúc tác của protein.
Khi liên kết với mặt ngoài màng tế bào tại phần acid sialic của protein, phần acid
này tích điện làm cho bề mặt glycoprotein của tế bào mang điện âm. Các phần tử
glycoprotein đều mang điện âm nên đẩy nhau làm cho chúng không bị hòa nhập
với nhau.
Glycolipit cũng vậy, có phần cacbonhydrat quay ra phía ngoài tế bào cũng
liên kết với một acid gọi là gangliosit cũng mang điện âm và góp phần cùng với
các glycoprotein làm cho hầu hết các mặt ngoài của hầu hết tế bào mang điện
tích âm.
Cả 3 thành phần: lipit màng, protein xuyên màng và protein ngoại vi cùng
với cacbonhydrat glycosyl hóa tạo nên một lớp bao phủ tế bào gọi là áo tế bào
(cell coat).
Tính chất chung là như vậy nhưng từng vùng, từng điểm một, thành phần
và cấu trúc rất khác nhau tạo nên các trung tâm các ổ khác nhau phụ trách các
chức năng khác nhau như nhận diện, đề kháng, truyền tin, vận tải ... Điều chú ý
là protein bào tương không có glycosyl hóa. Ở vi khuẩn Eubacteria hầu như
không có glycosyl hóa.
Sự hình thành màng tế bào : màng chỉ được sinh ra từ màng.
Màng tế bào được nhân lên mạnh nhất là trước lúc phân bào khi bào
tương nhân đôi thì màng tế bào nhân đôi đủ cho hai tế bào con. Bào quan trực
tiếp tổng hợp nên màng mới là lưới nội sinh chất có hạt. Màng lipit do màng
lưới nội sinh chất không hạt tổng hợp, protein màng do các ribosom bám trên
lưới nội sinh chất có hạt tổng hợp. Nguồn gluxit lấy từ bào tương và một phần
không nhỏ do các túi gôngi cung câp thông qua các túi tiết và các túi thải chất
cặn bã.
Thường xuyên màng tế bào bị thu nhỏ lại vì phải lõm vào để tạo nên các
túi tiết và túi thải. Để bù lại thường xuyên tế bào có các túi tiết và túi thải cặn bã,
khi đã đưa hết nội dung ra ngoài rồi thì phần vỏ túi ở lại và hòa nhập vào màng
tế bào. Sự hòa nhập này khá dễ dàng vì nói chung cấu tạo màng của các túi và
của màng tương đối giống nhau.
Ở vi khuẩn có hiện tượng màng tế bào gấp nếp và lồi ra về phía bào
tương, các nếp gấp này được gọi là mesosom đôi khi được làm nơi bám của
nhiễm sắc thể vi khuẩn trước lúc phân bào. Ở tảo lam tại đây có các protein tiếp
nhận ánh sáng và tiến hành quá trình quang hợp, ở trong lạp thể của tế bào thực
vật thì cơ chế gấp nếp của màng trong của lạp thể tạo ra lớp màng thứ 3 của lạp
thể, màng thylakoit (xem lạp thể)
4.2.2. Chức năng chung của màng tế bào
- Bao bọc tế bào, ranh giới giữa tế bào và môi trường
- Là hàng rào cho phép vật chất qua lại màng theo hai cơ chế thụ động và chủ
động
- Truyền đạt thông tin bằng các tín hiệu hóa học và vật lý học
66
- Xử lý thông tin
67
+ Nhận diện : nhận diện tế bào quen, lạ, kẻ thù
+ Kích thích hoặc ức chế tiếp xúc giữa các tế bào, tế bào với cơ chất
Làm giá thể cho các enzym xúc tác các phản ứng sinh học các loại trên
màng, cố định các chất độc dược liệu, virut, đề kháng bằng các cấu trúc trên
màng.
67
68
68
Chương 4
NHÂN TẾ BÀO
Nhân (nucleus) được Braw phát hiện vào năm 1831 và được xem là
thành phần bắt buộc của tất cả tế bào động vật cũng như thực vật. Ở các tế bào
Prokaryota (vi khuẩn) người ta không quan sát thấy nhân. Tuy nhiên hiện nay
với những phương pháp nghiên cứu sinh hóa, hiển vi điện tử và di truyền vi sinh
vật đã
chứng minh rằng trong các tế bào
Prokaryota tồn tại phân tử ADN (acid
deoxyribonucleic) nằm trong vùng “thể
nhân” có cùng chức năng tương tự như nhân
của Eukaryota, vì vậy thể nhân ở vi khuẩn
có tên gọi là nucleoid. Như vậy ta có thể
xem sự tiến hóa từ dạng ADN trần phân tán
trong tế bào chất ở dạng nucleoid
(Prokaryota) sang dạng ADN liên kết với
histon thành các nhiễm sắc thể định khu,
tách biệt bởi màng nhân ở dạng nhân
(nucleus) ở Eukaryota là sự tiến hóa của bộ
máy di truyền của sinh giới.
2. Kích thước
Kích thước của nhân thay đổi tùy loại tế bào và phụ thuộc vào kích thước
của tế bào cũng như trạng thái chức năng của tế bào. Mỗi kiểu tế bào có một tỉ lệ
kích thước nhất định giữa nhân và bào tương. Sự thay đổi tỉ lệ này dẫn đến sự
phân bào hay hủy hoại tế bào. Tỷ lệ giữa nhân và tế bào chất có thể biểu hiện
bằng chỉ số sau đây:
80
Vn
NP =
Vc - Vn
Trong
đó:
- NP: chỉ số nhân tế bào chất.
- Vn: thể tích nhân.
- Vc: Thể tích tế bào.
3. Số
lượng
Mỗi tế bào thường có một nhân. Đôi khi có nhiều hơn như tế bào gan, tế
bào tuyến nước bọt của động vật có vú... Có tế bào không có nhân như hồng cầu
máu ngoại vi động vật có vú. Những hồng cầu này không có chức năng sinh sản.
4. Cấu trúc và chức năng của nhân tế bào
Các bộ phận chính của nhân tế bào là: màng nhân, dịch nhân, nhiễm sắc thể và
hạch nhân.
4.1. Màng nhân
Hình hiển vi điện tử cho thấy màng nhân là một màng kép gồm có màng
nhân ngoài và màng nhân trong. Xoang được giới hạn bởi 2 màng này gọi là
xoang quanh nhân.
* Màng nhân ngoài: là một màng sinh chất nội bào kiểu như màng lưới
nội sinh chất có hạt, nó có hạt ribosom bám ở bề mặt ngoài màng, phía bào
tương. Màng ngoài của nhân có độ dày chừng 10nm.
Về thành phần hóa
học thì lại giống với
lưới nội chất trơn
nghĩa là cholesterol
chiếm 10% thành
phần lipit và các
thành phần lipit khác
gần giống như của
lưới nội chất trơn.
Nó kém lỏng linh
động hơn màng lưới
nội sinh chất có hạt.
Màng nhân ngoài nối
liền với màng LNSC.
81
Về chức năng
Hình 4.3. Cấu trúc nhân tế bào nó phụ trách việc tái
tạo màng nhân, tham
gia tổng hợp màng
LNSC và các màng
nội bào khác kể cả
màng tế bào cùng
với LNSC. Cách làm
của nó là gửi tới nơi
cần những mảnh
màng mới tạm thời
cuốn lại thành các túi
hình cầu giống như
các túi vận tải nội
bào.
82
* Xoang quanh nhân: xoang quanh nhân dày khoảng10-20 nm. Xoang này
thông với lưới LNSC có hạt và thông ra ngoài tế bào. Vật chất bên trong di
chuyển theo hai chiều giữa xoang quanh nhân và LNSC có hạt.
* Màng nhân trong: dày khoảng 10nm gồm có hai phần: phần màng sinh
chất thì giống với màng sinh chất của màng nhân ngoài, còn phần lá màng ép
bên trong màng nhân trong gọi là lamina. Lamina là một hệ lưới mỏng kết bằng
3 loại protein chính tên là: lamina A, B và C. Lamina lát trong màng nhân nhưng
vẫn để chừa các lỗ màng nhân lại. Các protein lamina là nơi bám của một số các
sợi Chromatin của các nhiễm săïc thể. Trong gian kỳ của sự phân bào, các
nhiễm sắc thể đều bị neo lại xung quanh nhân bằng một số các sợi chromatin với
lamina.
* Lỗ màng nhân
Ở tế bào Eukaryota màng nhân đều có lỗ ít hay nhiều. Riêng ở động vật
có vú mỗi tế bào có khoảng 3000 đến
4000 lỗ màng nhân
tức khoảng 11 lỗ trên
1mm2.
Lỗ có cấu trúc
phức tạp, gồm thành
lỗ hình ống bằng
màng sinh chất nối
liền màng nhân ngoài
và màng nhân trong
xung quanh miệng lỗ
cũng như xung quanh
đáy lỗ có gắn 8 hạt
protein lớn cách đều
nhau. Ở lưng chừng
thành lỗ cũng có gắn 8
hạt protein. Ba vòng
hạt protein có hình chiếu trùng Hình 4.4. Cấu trúc lỗ màng nhân
nhau.
Một số loài sinh vật, lỗ màng nhân có thêm một phân tử protein nằm giữa
lỗ gọi là nút lỗ màng.
Tất cả hệ thống protein thuộc lỗ màng nhân điều khiển việc qua lại của
vật chất qua lỗ màng. Các chất hòa tan trong nước qua lại màng dễ dàng.
Lỗ màng rộng 9nm dài 15nm nên các chất có kích thước lớn, hoặc lớn
hơn 9nm qua lại màng phải theo cơ chế chủ động, có sự can thiệp của các
protein lỗ màng và cả sự biến dạng của protein muốn qua màng nhân.
Qua lại màng nhân chủ yếu là các ARN (ra), các ADN polymerase (vào),
các phân đơn vị của ribosom (ra) các histon và các protein của ribosom (vào).
* Sự hình thành và biến mất của màng nhân:
83
Màng nhân được nhân đôi lúc phân bào, do chính màng nhân cũ tạo
nên, có sự tham gia của LNSC có hạt, LNSC trơn và bào tương. Khi sắp bước
vào kỳ giữa của sự phân bào thì màng nhân biến mất. Biến mất có nghĩa là vỡ
vụn ra từng mảnh và cuốn lại thành hình túi cầu và phân tán trong bào tương.
Các laminin thì rời ra, giáng cấp thành monomer và phân tán trong bào tương.
Khi màng nhân xuất hiện có nghĩa là các túi cầu này hợp lại, các laminin
polymer hóa trở lại để tái tạo thành hai màng nhân cho hai tế bào con.
Điều chú ý là khi có tín hiệu giải thể màng nhân thì đồng thời tất cả các
hiện tượng cắt tách và hòa nhập các phần khác của tế bào cũng dừng lại.
84
4.2 Dịch nhân
Dịch nhân chứa nguyên liệu và enzym xúc tác các quá trình nhân đôi
ADN, sao mã và một số quá trình khác xảy ra trong nhân. Gần đây người ta phát
hiện được sự có mặt của một hệ thống các sợi protein các loại trong số đó có
actin. Hệ thống này được gọi là khung xương của nhân. Một số bộ phận của
khung xương thì neo với lamina. một số bộ phận khác thì liên kết với các vùng
nhất định của chromatin.
Rất có thể khung xương cùng với lamina tạo thành một phức hợp có khả
năng điều chỉnh sự biểu hiện của gen và chuyển các ARN ra bào tương. Phức
hợp điều chỉnh này có thể liên hệ chức năng với khung xương của bào tương và
cả với màng tế bào.
4.3 Nhiễm sắc thể
Các nhiễm sắc thể của Eukaryota có cấu trúc phức tạp mang thông tin di
truyền của tế bào và của cả cá thể sinh vật.
* Cấu trúc vi thể: hình dạng vi thể
của nhiễm sắc thể tức là hình dạng
được quan sát ở kính hiển vi quang
học. Thường nhiễm sắc thể được
quan sát và ứng dụng lúc chúng ở
gian kỳ, kỳ giữa và đôi khi ở kỳ sau
của sự phân bào.
- Ở gian kỳ nhân cho thấy các
hạt bắt màu phẩm nhuộm nhân hình
lấm tấm gọi là hạt nhiễm sắc. Hạt
thấy lớn hơn gọi là khối nhiếm sắc.
Nếu thấy các sợi dài mảnh thì gọi là
sợi nhiễm sắc, thấy chằng chịt như
mạng lưới gọi là lưới nhiễm sắc.
- Ở kỳ giữa : nhiễm sắc thể co
ngắn nhất, rõ nhất , ở dạng gồm
hai nhiễm sắc tử (dạng kép). Ở
người nhiễm sắc
thể ở kỳ giữa có các dạng sau đây:
+ Nhiễm sắc thể tâm giữa:
gọi là tâm giữa vì nhiễm sắc thể
nào cũng có một phần tâm chia
nhiễm sắc thể (đơn) ra làm hai
nhánh, nhánh ngắn xếp trên ký
hiệu là p và nhánh dài xếp dưới
ký hiệu là q.
. Khi p = q thì gọi là tâm Hình 4.5. Nhiễm sắc thể
giữa.
85
. Khi p < q hơi ngắn hơn thì gọi là nhiễm sắc thể tâm gần giữa.
. Khi p = 0 (p rất ngắn không đáng kể) thì gọi là nhiễm sắc thể tâm đầu.
. Đôi khi nối tiếp với p của nhiễm sắc thể tâm đầu có thêm các núm hình
cầu nhỏ gọi là vệ tinh ký hiệu là S.
. Ngoài ra các nhiễm sắc thể dạng kép còn có một bộ phận gọi là tâm
động (Kinetochore), một cấu trúc 3 lớp hình lòng máng ngắn vừa ôm lấy phần
tâm (centromere) từ hai bên tâm động thấy xuất hiện sợi thoi vô sắc nối liền với
sợi thoi vô sắc từ trung thể lúc phân bào.
86
* Số lượng nhiễm sắc thể: tế bào Eukaryota có hai nhiễm sắc thể tức là có
hai bộ giống nhau, mỗi bộ gồm n nhiễm sắc thể khác nhau. Số n khẳng định với
loài nhưng khác nhau tùy loài.
Ở người 2n = 46 = 23 x 2. Trong 23 nhiễm sắc thể có 22 nhiễm sắc thể
thường và một nhiễm sắc thể giới. Ở nam giới nhiễm sắc thể giới có hai loại,
nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y và được gọi là dị giao tử ( giao tử mang Y
và giao tử mang X). Ở nữ giới chỉ có một loại nhiễm sắc thể giới là X và do đó
chỉ có một loại giao tử mang X. Ở người thì dị giao tử là dị giao tử đực, khác
với một số loài
vật dị giao tử lại
thuộc về con cái
và gọi là dị giao
tử cái.
* Cấu trúc
siêu vi thể của
nhiễm sắc thể.
Nhờ thành
tựu của
J.R.Paulson và
U.K.Laemmli,
năm 1977 nhiễm
sắc thể ở kích
thước hiển vi cho
thấy, ở kỳ giữa
nhiễm sắc thể
người bao gồm
một lõi khung
protein không
phải là histon,
xung quanh lõi
khung chi chít
những sợi
chromatin và vì ở Hình 4.6. Karyotyp nhiễm sắc thể người
kỳ giữa nên nhiễm sắc thể ở dạng kép, có hình chữ X nên cũng có hình chữ X, ở
trên một nhiễm sắc tử người ta tin rằng chỉ có một sợi chromatin duy nhất, liên
tục mặc dù trên suốt chiều dài của lõi khung protein thấy vô số các vòng sợi
chromatin dính vào lõi khung. Các vòng này không riêng rẽ, mỗi vòng dài từ 10
đến 90 Kilobazơ. Các đầu mút của vòng (ranh giới của hai vòng) bám vào lõi
khung protein.
Cấu trúc của sợi chromatin: sợi chromatin khi làm duỗi tối đa ra và quan
sát với kính hiển vi điện tử thấy sợi có dạng một chuỗi hạt, hạt xếp đều đặn theo
chiều dài của một sợi mảnh. Đường kính của chuỗi hạt bằng khoảng 10nm.
Dạng cuộn xoắn cấp thấp nhất tạo thành một sợi có đường kính bằng 30 nm. Sợi
chromatin lại xoắn tiếp ở cấp cao hơn tạo thành các búi sợi hình múi gọi là
87
múi vi thể chromatin bám xung quanh trục của nhiễm sắc thể.
Cấu trúc trên đây của nhiễm sắc thể là của nhiễm sắc thể kỳ giữa và cũng
là cấu trúc của nhiễm sắc thể khi phân bào nói chung. Vấn đề là ở gian kỳ nhiễm
sắc thể tồn tại như thế nào. Giả thuyết có nhiều nhưng giả thuyết của Laemmli
được quan tâm nhiều nhất. Laemmli cho rằng lúc gian kỳ sợi chromatin vẫn bám
vào protein của lõi khung phân tán trong dịch nhân. Sợi chromatin một mặt giữ
mối liên hệ với protein khung, vào kỳ đầu phân bào, các mối nối với lamina đứt
ra, lõi khung được tái lập và nhiễm sắc thể trở lại dạng điển hình để đi vào phân
bào.
88
Trong gian kỳ khi nhiễm sắc thể bị giải thể, tuy phân tán trong nhân
nhưng mỗi nhiễm sắc thể (dạng giải thể) có vị trí nhất định của mình trong nhân
chứ không phải phân tán ngẫu nhiên.
Thành phần hóa học của sợi chromatin: sợi chromatin làm bằng ADN, với
vai trò chứa thông tin di truyền, các protein histon liên kết với ADN, các protein
HMG không liên kết thường xuyên với ADN. Các loại protein trên chiếm phần
đa số, còn một loại nữa chiếm phần thiểu số là các protein enzym, protein cấu
trúc và có thể có cả protein điều chỉnh và tương tác với protein. Các loại này có
số lượng phân tử của mỗi loại không nhiều, vài ba bản sao.
91
- Có loài sinh vật có kiểu ghép exon khác, các intron bị cắt bỏ, các exon
nối lại với nhau theo trình tự của gen tức ghép exon cùng gen (cis-splicing). Sự
ghép exon cùng gen có thể có sự có mặt của các protein tác động nhưng cũng có
thể không có protein tác động, loại không có protein tác động gọi là “ghép tự
động exon” (autosplicing). Mới đây người ta phát hiện thấy ở loài trypanosoma
có hiện tượng ghép exon khác gen (trans-splicing) tức là ghép exon của gen này
với exon của gen khác tạo nên một gen mới.
Tuy nhiên những hiểu biết về intron và exon còn chưa đầy đủ, có một
intron của qúa trình sao mã này lại trở thành exon của quá trình sao mã khác. Có
tác giả thì gọi exon là phần mã hóa cho cả mARN, tARN và rARN, có tác giả
khác thì chỉ dành cho nó việc mã hóa ra mARN mà thôi. Ngày nay có xu hướng
gọi chi tiết hơn: exon là tên chung chỉ có phần sao mã, nhưng có phần của exon
chỉ sao mã mà không dịch mã.
4.4. Hạch nhân
Hạch nhân là một thể cầu không tồn tại liên tục trong nhân tế bào. Nó là
một hình ảnh tạm thời, một đội hình làm việc của một số nhiễm sắc thể trong tế
bào.
Tế bào người có một hạch nhân, nó bắt màu đậm hơn phần còn lại của nhân.
Hạch nhân của tế bào người do 10 nhiễm sắc thể tâm đầu (các đôi 13, 14, 15,
21 và
22) chụm đầu lại tạo thành. Phần đầu của các nhiễm sắc thể tâm đầu (có vệ tinh
hoặc không) được gọi là vùng tổ chức hạch nhân, ký hiệu quốc tế lấy từ tiếng
Anh là NOR (nucleolus oligosaccaritrganization regions) các NOR chụm lại và
hình thành nên hạch nhân. Chúng chuyên chứa các gen tổng hợp nên rARN cho
ribosom ( ở người còn có một gen 5S tổng hợp rARN 5S nằm ở phần cuối nhánh
dài của nhiễm sắc thể số 1, không tập trung tại hạch nhân) và cũng tại hạch nhân
các protein ribosom từ bào tương đi vào gặp các rARN mới tạo, ghép lại với
nhau để tạo nên các phân đơn vị nhỏ và lớn của ribosom. Rồi các phân đơn vị
này cứ thế đi luồn qua lỗ màng nhân để ra bào tương.
Với sự hình thành và chức năng trên đây của hạch nhân thì việc hạch nhân
biến mất lúc các nhiễm sắc thể phải về tập trung ở mặt phẳng xích đạo của kỳ
giữa là hoàn toàn hợp lý. Khi đã phân bào xong, tế bào trở lại làm việc thì dĩ
nhiên hạch nhân sẽ lại xuất hiện.
4.5. Chức năng chung của nhân tế bào
- Nhân tế bào chứa đựng vật liệu thông tin di truyền, quyết định tính di
truyền của tế bào và của cá thể.
- Điều hòa và điều khiển các hoạt động sống của tế bào. Theo quan điểm
sinh học hiện đại nhân là trung tâm điều hòa và điều khiển các quá trình sinh
tổng hợp protein xảy ra trong tế bào chất.
Tế bào chất chỉ có vai trò tạo điều kiện cho vật liệu di truyền thực hiện
chức năng của mình. Khi bào tương và rộng ra cả môi trường tác động không
bình thường làm thay đổi vật liệu di92truyền thì đó lại là chuyện khác. ADN
có trong bào tương, tự do hay trong bào quan có chức năng riêng của
chúng.
93
Chương 5
SỰ TRAO ĐỔI VẬT CHẤT GIỮA TẾ BÀO VÀ MÔI
TRƯỜNG
Màng tế bào đóng vai trò vận chuyển vật chất ra vào tế bào, tiếp nhận và
truyền đạt thông tin từ ngoài vào, duy trì một môi trường riêng cho tế bào so với
môi trường. Màng bào quan thì duy trì một môi trường riêng cho bào quan so
với bào tương. Sự vận chuyển qua màng tế bào được chia làm hai loại lớn: VẬN
CHUYỂN VÀ ẨM THỰC BÀO
95
- Gradient nồng độ :
+ Môi trường nhược trương: nồng độ chất hòa tan trong môi trường thấp
hơn trong tế bào: tế bào trong đó (động vật) sẽ bị trương bào rồi tan bào.
+ Môi trường ưu trương: nồng độ chất hòa tan trong môi trường cao hơn
trong tế bào: tế bào trong đó (động vật) sẽ bị teo và nếu là thực vật sẽ bị co
nguyên sinh.
+ Môi trường đẳng trương: nồng độ chất hòa tan ở hai phía màng bằng
nhau, môi trường này còn gọi là môi trường sinh lý hợp với sự sống của tế bào.
Nồng độ chất đối với mỗi loại tế bào động vật và thực vật có khác nhau.
- Phụ thuộc vào tính ion hóa của phân tử :
+ Ion hóa trị 1 dễ qua màng hơn ion hóa trị 2
+ Ion bị bao thêm nước trở nên to và khó qua.
0
- Nhiệt độ tăng vừa phải thì kích thích sự thấm qua màng (khi tăng 10 C
thì tính thấm tăng 1,4 lần).
- Nhu cầu hoạt động cũng làm tăng tính thấm : khi cơ hoạt động thì
glucose và axit amin đi vào. Khi cơ duỗi thì không.
- Phụ thuộc vào tác động tương hỗ của các chất:
+ Ca++ liên kết với nước thì giảm thấm
+ Glyxeryn khi có thuốc mê thì tăng thấm.
97
1.2.2. Vận chuyển glucose qua màng hồng cầu
Vận tải viên là một protein xuyên màng gọi là permease (chiếm 2% tổng
protein màng hồng cầu). Gọi cả chữ là glucose- permease. Glucose chính xác là
D-glucose (vì các đường đơn của sinh vật đều là quay phải “D” trừ một vài
ngoại lệ, đường L-glucose không vào được) liên kết tạm thời với permease,
permease biến dạng và đẩy glucose vào hồng cầu. Năng lượng dùng cho vận
chuyển không phải là của tế bào mà là từ gradient hóa học của glucose. Sự vận
chuyển glucose là hai chiều nhưng vì khi glucose vào đến bào tương là
photphoryl hóa để chuyển ngay thành glucose 6-photphat nên không ra được,
một số ít phân tử glucose còn lại tạo nên một môi trường nội bào nhược trương
về glucose để thu hút thêm glucose vào tiếp. (Một số anion như Cl- và HCO3-
cũng được vận chuyển có trung gian)
Permease còn đưa cả một số đường đơn quay phải “D” khác không phải là
glucose, tần suất có thấp hơn so với tần suất đưa glucose, vì thế mà permease
mang cái tên chung hơn : D-hexose permease.
1.2.3. Vận chuyển một số anion qua màng:
Các ion Cl- và HCO
3
-
cũng vào màng hồng cầu nhờ vận tải viên protein 3
tên là Band , 1 protein xuyên màng có nhiều chức năng trong đó có việc vận
3 3
- -
chuyển Cl và HCO . Band xúc tác việc trao đổi: 1 đổi 1 anion3 qua màng, có
nghĩa là đưa một HCO - vào thì đưa 1 Cl- ra và ngược lại như là để luôn giữ mối
Các phân tử cần vận
chuyển
Chất mang
Kênh
- Ví dụ thứ
hai là cái bơm
Ca++: caí bơm
này là
++
Ca ATPaza
chúng ta đã gặp ở
lưới nội sinh
chất. Nó là
protein màng của
lưới nội sinh
hồng cầu. Ở hồng cầu nó chất trên màng
đẩ Hình 5.5. Bơm K+ của tế bào cơ và
Na + trên màng của
99 tế bào
bơm Ca++ vào lưới nội y Ca ra khỏi hồng cầu. Ở tế bào cơ nó
++
sinh chất thì cơ duỗi, khi bơm trả lại Ca++ cho bào tương cơ thì cơ co.
Ca++ATPaza cần Mg++ để hoạt động.
+
- Ví dụ thứ ba là cái bơm protein (H ): tên nó là hệ thống vận chuyển
proton phụ thuộc ATP. Gặp ở màng tiêu thể phụ trách việc duy trì độ pH axit
của tiêu thể bằng cách bơm H+ vào tiêu thể. Gặp màng thylacoit của lục lạp phụ
trách tạo một gradient điện hóa giữa hai phía của màng thylacoit do sự chênh
lệch lớn về ion H+.
100
Ðây là protein tải vận chuyển tích cực H+ qua màng kèm theo thủy phân
ATP. Bơm H+ tham gia vào việc duy trì môi trường acid trong các tiêu thể nhờ
vận chuyển liên tục H+ từ dịch bào tương qua màng tiêu thể. Nó cũng có mặt
trên màng bào tương và vận chuyển H+ từ bào tương ra khoang gian bào, nhờ
vậy, dù tế bào trong khi trao đổi chất luôn sinh ra acid (CO2, acid lactic...) nhưng
vẫn duy trì được pH trung tính. Màng tế bào dạ dày tiết acid chlohydric đặc biệt
có bơm H+ rất hoạt động.
1.3.3. Sự vận chuyển ion và ý nghĩa sinh học của nó:
Bơm H+ đưa H+ vào ti thể hay vào khoang túi của lục lạp làm cho môi
trường bên trong chúng có độ pH thấp (=5). Điện tích ion ở hai bên màng có sự
phân cực về điện. Điện tích ion bào tương khác với điện tích ion môi trường làm
cho giữa hai bề mặt của màng có một hiệu số điện thế. Khi không có kích thích
thì điện thế này ở trạng thái nghỉ tức là âm và bằng mấy chục mV (tế bào thần
kinh :-70 mV, cơ vân: -90 mV, cơ trơn :-50 mV). Sự kích thích bằng hóa lý có
thể mở đường cho ion ra vào ồ ạt làm mất trạng thái nghỉ, sang trạng thái có thế
năng mạnh. Các hiện tượng này làm cơ sở cho sự hình thành các luồng thần kinh
và sự co cơ.(Trong phạm vi một bài về vận chuyển chưa đề cập đến từng vai trò
của từng loại lớn)
Gradient Na+ cung cấp năng lượng cho vận chuyển chất khác:
Trong tế bào, nồng độ Na+ thấp hơn nhiều so với ngoài tế bào. Gradient
Na+ (gradient điện hoá) như một nguồn thế năng vận chuyển một số phân tử và
ion khác nhau nhờ hiệp vận: Na+ xuôi chiều gradient (từ ngoài vào bào tương)
kèm theo vận chuyển một chất khác ngược chiều gradient của chất đó. Chẳng
hạn glucose từ khoang ruột được hấp thu vào tế bào nhờ cơ chế đồng vận với
Na+, trong đó cả Na+ và glucose được vận chuyển từ ngoài vào trong qua một
protein tải.
Trường hợp tế bào cơ tim vận chuyển Ca++ ngược chiều gradient từ bào
tương ra gian bào và vào lưới nội cơ tương dựa trên đối vận với Na+ chạy xuôi
chiều gradient: Ca++ và Na+ chạy ngược chiều nhau qua cùng một protein tải nằm
trên màng bào tương hoặc màng lưới nội cơ tương.
- Tổn thương tế bào do rối loạn vận chuyển tích cực:
Tế bào sống luôn vận chuyển tích cực để duy trì các gradient nồng độ qua
màng. Trong điều kiện thiếu năng lượng, chẳng hạn thiếu oxy, ty thể không sản
xuất đầy đủ ATP, bơm ATPaza ngưng hoạt động dẫn đến tổn thương và chết tế
bào:
+ + +
- Bơm Na /K ngưng hoạt động, Na xuôi chiều gradient lọt vào tế bào,
điện tích âm giảm đi, màng bào tương bị khử cực, Cl- dễ dàng lọt vào tế bào.
Nồng độ muối bào tương tăng lên, làm tăng áp lực thẩm thấu, hút nước từ ngoài
vào, tế bào trương nở, thậm chí có thể vỡ.
+
- Bơm H ngưng hoạt động làm cho bào tương bị axit hoá (pH giảm)
trong khi pH tiêu thể tăng lên. Enzym trong tiêu thể có thể lọt ra bào tương gây
phá hủy tế bào v.v....
101
Các tế bào tiêu thụ nhiều ATP như cơ tim và não lại càng nhạy cảm
với các rối loạn thiếu oxy. Thiếu oxy nặng (vài chục phút) có thể gây ra những ổ
hoại tử trong cơ tim hay não (nhồi máu).
2. Ẩm thực bào
Là hình thức vận chuyển có sử dụng những túi làm bằng màng sinh chất.
Có 4 hình thức: ẩm bào (pinocytosys), nội thực bào (endocytosys), thực bào
(phagocytosys) và ngoại tiết bào (exocytosys).
102
Hình 5.6. Sự nhập bào
Nhập bào là quá trình vận chuyển từ gian bào vào bào tương, trong đó
khối vật chất sau khi vào bào tương vẫn được ngăn cách bằng một lớp màng:
khối vật chất được cách li nhờ sự dính màng giữa hai lớp lipid phía ngoại bào,
sau đó được chuyển hẳn vào bào tương. Có hai kiểu nhập bào: ẩm bào và thực
bào. Ẩm bào có thể thấy ở hầu hết các tế bào, trong khi thực bào chỉ xảy ra ở
một số loại tế bào.
2.1. Ẩm bào
Là sự tiếp thu không đặc hiệu các chất hòa tan trong dịch ngoại
bào. Màng bào tương lõm xuống thành một cấu trúc gọi là lõm mặc áo (coated
pit), sau đó bứt vào bên trong nhờ kết hợp màng, tạo thành nang mặc áo (coated
vesicle). Lõm và nang mặc áo có kích thước chừng 150 nm. Phía dưới màng có
một lớp lưới protein clathrin. Chính lưới này tạo ra lực kéo màng bào tương lõm
xuống và xảy ra kết hợp màng.
104
Hình 5.8. Quá trình ẩm bào
2.3. Thực bào
Thực bào là một dạng nhập bào đặc biệt, trong đó những hạt khá lớn về
kích thước (vi sinh vật, mảnh xác tế bào...) được chuyển vào bên trong bào
tương qua cơ chế giả túc và nhập màng. Chỉ có hai loại tế bào thực hiện được
chức năng này là đại thực bào và bạch cầu hạt trung tính. Ðại thực bào lưu thông
trong máu hoặc tập trung ở một số cơ quan hàng rào ngăn chặn vi sinh vật xâm
nhập. Trong gan, tập trung tạo thành những cấu trúc hình ống, dòng máu chảy
qua ống sẽ được lọc khỏi các hạt lạ.
Hình 5.9. Thực bào
Thực bào được thực hiện với các hạt có kích thước lớn (250 nm hoặc hơn
nữa). Trước hết, các kháng nguyên trên bề mặt của hạt được gắn với kháng thể
tương ứng. Hạt kích thước lớn được rất nhiều kháng thể bao bọc xung quanh.
Mỗi kháng thể (immunoglobulin) đều105chứa đầu biến động và đuôi hằng định
(chuỗi Fc). Kháng thể nhận biết và gắn với kháng nguyên thông qua đầu biến
động. Chuỗi Fc không tham gia tương tác với kháng nguyên nên ở trạng
106
thái tự do và hướng ra phía ngoài phức hợp kháng nguyên-kháng thể. Sau đó Fc
tương tác với thụ thể tương ứng (thụ thể Fc) trên bề mặt đại thực bào hoặc bạch
cầu hạt trung tính. Tương tác Fc-thụ thể có thể bắt đầu từ một điểm tiếp xúc giữa
hạt với màng, sau đó lan rộng ra và bao trùm hết bề mặt của hạt. Màng bào
tương cùng với dịch bào tương vươn ra và bao trùm toàn bộ bề mặt của hạt lạ
được gọi là giả túc, hiện tượng tạo thành giả túc còn được gọi một cách hình ảnh
là cơ chế khuy kéo màng (membrane-zippering mechanism).
Ngoài vai trò của Fc-thụ thể theo cơ chế khuy kéo, trong sự chuyển động
của màng bào tương để tạo thành giả túc còn có vai trò của mạng lưới protein
sợi actin nằm phía dưới màng. Ngoài actin, clathrin cũng được tìm thấy có nhiều
trong giả túc. Tuy nhiên vai trò của clathrin trong chuyển động giả túc chưa
được sáng tỏ.
Các hạt được thực bào thành túi thực bào (phagosom). Túi này nhập với
tiêu thể tạo thành tiêu thể thứ cấp (không bào tiêu hoá). Bên trong tiêu thể thứ
cấp các hạt được tiêu hoá, chất hoà tan được chuyển vào dịch bào tương. Màng
của không bào tiêu hoá cũng tách ra các túi vận chuyển nhỏ để hoàn trả vật liệu
lipit cho màng bào tương. Cuối cùng tiêu thể thứ cấp với vật chất không tiêu hoá
tạo thành thể cặn bã và được xuất bào.
Cơ chế thực bào đóng vai trò rất quan trọng trong sự đề kháng của cơ thể
đối với các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài xâm nhập. Ngoài việc bất hoạt và
tiêu hủy vi sinh vật, đại thực bào còn làm nhiệm vụ trình diện kháng nguyên
của vi sinh vật cho lympho T nhận biết. Lympho T sau khi "nhận diện kháng
nguyên" sẽ hoạt hoá và sản xuất kháng thể chống lại kháng nguyên đó. Ðại thực
bào còn đóng vai trò trong việc tiêu hủy các tế bào già cũ trong cơ thể. Trung
bình mỗi ngày, trong cơ thể người có hơn 1000 hồng cầu bị thực bào và tiêu hủy.
2.4. Ngoại tiết bào
Là hiện tượng các túi bài tiết chứa chất thải hoặc chất chứa từ bào tương
đến áp sát màng, hòa màng túi vào màng tế bào, mở túi và thải các chất ấy ra
108
trong túi chế tiết (hormon, enzym tiêu hoá, chất trung gian dẫn truyền thần kinh
v.v...). Tín hiệu điều khiển có thể chỉ tác dụng lên một khu vực hạn chế của
màng bào tương, và phản ứng chế tiết cũng có thể chỉ xảy ra trên khu vực này
của màng.
Số lượng màng nội bào được nhập vào màng bào tương do cơ chế xuất
bào có thể rất cao. Ví dụ mỗi tế bào cực ngọn của tụy có diện tích màng ở đỉnh
là 30 micromét 2, nhưng khi có tín hiệu chế tiết enzym tiêu hoá, màng phải tiếp
nhận thêm đến 900 micromét2 màng của các túi chế tiết. Màng này sau đó được
thu hồi vào hệ thống màng nội bào nhờ nhập bào.
109
Chương 6
CHU KỲ SỐNG CỦA TẾ BÀO VÀ SỰ PHÂN BÀO
Phân bào là một quá trình phức tạp, về mặt di truyền có thể xem phân bào
là phương thức mà qua đó tế bào bố mẹ truyền thông tin di truyền cho các thế hệ
con cháu. Vì qua phân bào các NST đã được phân đôi trong chu kỳ tế bào sẽ
được phân ly đồng đều về 2 tế bào con.
Người ta thường phân biệt các kiểu phân bào sau đây:
- Phân bào nguyên nhiễm (mitosis). Còn gọi là nguyên phân. Là phương
thức phân bào phổ biến nhất, thường đặc trưng cho các tế bào soma và tế bào
sinh dục khi còn non.
- Phân bào giảm nhiễm - giảm phân (meiosis). Là phương thức phân bào
để hình thành các giao tử ở các cơ thể sinh sản hữu tính.
- Phân bào tăng nhiễm - nội phân (endomitosis) đặc trưng cho tế bào đa bội.
- Trực phân - phân bào không tơ (amitosis). Đặc trưng cho các tế bào
bệnh lý hoặc tế bào đã biệt hoá.
1. Chu trình tế bào (cell cycle)
Các tế bào trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau và kết thúc bằng sự phân
chia tạo ra tế bào mới. Toàn bộ quá trình từ tế bào đến tế bào thế hệ kế tiếp được
gọi là chu trình tế bào, gồm 4 giai đoạn: M, G1, S, G2.
Sự phân chia tế bào chỉ chiếm một phần của chu trình tế bào
- M (mitosis) là giai đoạn nguyên phân.
- Giai đoạn G1 (Gap) kéo dài từ sau khi tế bào phân chia đến bắt đầu sao
chép vật chất di truyền. Sự tích luỹ vật chất nội bào đến một lúc nào đó đạt điểm
hạn định (restriction) thì tế bào bắt đầu tổng hợp ADN.
- Giai đoạn S (synthesis) là giai đoạn tổng hợp ADN. Cuối giai đoạn này,
số luợng ADN tăng gấp đôi và chuyển sang giai đoạn G2
- Giai đoạn G2 là giai đoạn được nối tiếp sau S đến bắt đầu phân chia tế
bào. Trong suốt giai đoạn này số lượng110ADN gấp đôi cho đến khi tế bào phân
chia.
Khoảng thời gian gồm G1, S, G2 tế bào không phân chia và được gọi
chung là gian kỳ hay kỳ trung gian (interphase). Chính ở kỳ trung gian này, tế
bào thực hiện các hoạt động sống chủ yếu khác và sao chép bộ máy di truyền.
111
2. Sự phân bào nguyên nhiễm
Quá trình nguyên nhiễm là quá trình phức tạp, gồm nhiều thời kỳ nối tiếp
nhau: kỳ đầu, kỳ giữa, kỳ sau, và kỳ cuối. Mỗi kỳ có đặc trưng về cấu trúc và
tập tính về NST, bộ máy phân bào.
Trong chu kỳ sống của tế bào thì thời kỳ phân bào là thời kỳ có nhiều biến
đổi sâu sắc trong cấu trúc và tập tính của NST. Qua đó các NST đã được nhân
đôi trong gian kỳ sẽ phân bố đồng đều cho 2 tế bào con.
113
2.2. Kỳ giữa (metaphase):
Các NST tập trung vào giữa tế bào, các tâm động cùng nằm trên một mặt
phẳng xích đạo. Thoi vô sắc được hình thành đầy đủ và có thể thấy 2 dạng sợi
của nó. Một dạng sợi kéo dài qua suốt tế bào, nối với 2 cực của tế bào. Dạng sợi
thứ 2 dính một đầu mút vào cực của tế bào và đầu mút kia vào tâm động của thể
nhiễm sắc.
Ở cuối kỳ giữa các thể nhiễm sắc bắt đầu tách nhau ở ra phần tâm.
2.3. Kỳ sau (anaphase):
Kỳ sau bắt đầu từ lúc các NST phân tách nhau ra và di chuyển về các cực
khác nhau. Bắt đầu tâm động phân đôi, các tâm động con tách nhau ra mang
theo các nhiễm sắc tử, và như vậy 2 nhiễm sắc tử trong 1 NST tách nhau ra và
nhờ tâm động sẽ di chuyển về hai cực của tế bào theo sợi của thoi phân bào. Và
các nhiễm sắc tử đã trở thành NST con.
Ở thời kỳ này bắt đầu hình thành nhân nhỏ, các màng nhân xuất hiện
màng ngăn cách các tế bào chị em, các cơ quan tử phân phối đều giữa các tế bào
mới.
2.4. Kỳ cuối (telophase):
Ở giai đoạn này các NST con đã chuyển đến 2 cực, chúng dần mở xoắn
và ẩn vào dịch tế bào giống như lúc bắt đầu kỳ đầu. Màng nhân được tái tạo
hoàn toàn, hạch nhân xuất hiện. Đồng thời xảy ra quá trình phân chia tế bào
chất.
Quá trình phân chia tế bào chất xảy ra ở động vật và thực vật khác nhau.
• Ở động vật: Ở phần
xích đạo tế bào hình
thành eo thắt ngày
càng phát triển và
cuối cùng phân thành
2 tế bào con.
• Ở thực vật: Khác với
động vật là ở xích
đạo hình thành một
vách ngăn và phân tế
bào thành 2 tế bào
con.
Người ta cho
rằng sự hình thành
vách ngăn ở thực vật
là do sự hoạt động di
chuyển tích cực của
mạng lưới nội chất,
phức hệ Golgi và các
cấu thành màng khác
về miền xích đạo của
tế bào 114
và tạo nên vách phân Hình 6.3. Kỳ cuối ở tế bào động vật và tế bào thực
cắt. vật
115
Trong nguyên phân xuất hiện bộ máy phân bào gồm:
- 2 sao tạo nên 2 cực của tế bào.
- Thoi phân bào.
Sao được tạo thành do trung tử và trung cầu, nó tạo nên 2 cực của phân
bào. Sao có nhiệm vụ định hướng cho sự phân ly của NST.
Thoi được tạo thành bởi các sợi nối 2 cực. Số lượng các sợi thay đổi từ
hàng chục đến hàng ngàn. Sợi thường được cấu tạo từ các vi ống có kích thước
từ 140 - 230 A0 .
Quan sát kỹ người ta thấy có hai loại sợi:
- Loại sợi nối 2 sao lại với nhau.
- Loại thứ 2 xuất phát từ tâm động dần nối với sao. Loại sợi này lôi
kéo nhiễm sắc tử về 2 cực.
+ Điều kiện cần phải có của quá trình phân bào:
Quá trình phân bào là một quá trình phức tạp, tất nhiên phải có cơ chế tự
điều hoà và điều khiển chung. Nhưng đến nay người ta chưa biết thật rõ cơ chế
này của sự phân bào.
Tuy nhiên người ta khẳng định: điều kiện cần thiết cho sự phân bào là tế
bào phải trải qua giai đoạn S. Nghĩa phải có sự tái bản AND và nhân đôi NST.
Lượng AND được tăng lên gấp đôi vào gian kỳ và giữ nguyên cho đến kỳ sau, ở
kỳ cuối tế bào phân đôi thì AND mới trở lại mức ban đầu. Và hàng loạt yếu tố
nội bào và ngoại bào có ảnh hưởng: ức chế, kích thích sự phân bào. Ví dụ chất
dinh dưỡng, hormone, các độc tố, các tác nhân vật lý: nhiệt độ, tia tử ngoại, tia
phóng xạ, các yếu tố sinh thái: nhịp độ ngày đêm.
+ Trong cơ thể đa bào: có 1 số tế bào có hoạt động phân chia cao như tế
bào tuỷ xương .., có tế bào thấp như tế bào gan.. và cũng có những tế bào hoàn
toàn không phân chia như các nơron thần kinh. Các mô ung thư có hoạt tính
phân bào cao.
3. Sự phân bào giảm nhiễm (meiosis):
Như ta đã biết nhờ phân bào nguyên nhiễm mà có sự phân bố đồng đều
NST về các tế bào con, và các tế bào con dù ở thế hệ thứ bao nhiêu đi nữa vẫn
mang bộ NST lưỡng bội. Đối với cơ thể sinh sản vô tính thì không có vấn đề gì
xảy ra. Nhưng đối với cơ thể sinh sản hữu tính là những cơ thể được phát triển
từ hợp tử thì có vấn đề vì hợp tử là tế bào lưỡng bội (2n) được hình thành do thụ
tinh là quá trình kết hợp các bộ NST của giao tử đực và giao tử cái. Và nếu như
giao tử là lưỡng bội 2n thì hợp tử ở thế hệ 1 là 4n, thế hệ 2 là 8n và .v.v. Nhưng
số lượng NST con cái và bố mẹ theo đúng quy luật là không thay đổi. Vì vậy
trong thiên nhiên thực tế không xảy ra như trên vì cơ thể hữu tính có một cơ chế
phân chia tế bào đặc biệt: Sự phân bào giảm nhiễm- đặc trưng cho sự phân chia
của các tế bào sinh dục. Do phân bào giảm nhiễm mà các giao tử có bộ NST đơn
bội 1n và qua quá trình thụ tinh hợp tử lại có bộ NST lưỡng bội 2n.
Cơ thể mang tế bào lưỡng bội được gọi là pha lưỡng bội (diplophase). Ví
dụ ở thực vật bậc cao pha lưỡng bội chính là cây mang lá, và trên các cây này sẽ
tạo thành cơ quan sinh sản. Các cây116như thế được gọi là cây mang bào tử -
thể bào tử: bởi vì các bào tử được tạo thành ở cây (tiểu bào tử trong các bao
phấn, đại bào tử trong phôi tâm của noãn). Các bào tử được hình thành do kết
quả phân bào giảm nhiễm đánh dấu sự kết thúc pha lưỡng bội và tiến sang giai
đoạn đơn bội.
Ở động vật phân bào giảm nhiễm xảy ra ở giai đoạn chín (giai đoạn tạo
thành noãn bào và tinh trùng). Như vậy ở các cơ thể sinh sản hữu tính trong quá
trình hình thành các giao tử và thụ tinh có khác sự thay thế các pha bội thể
(lưỡng bội- đơn bội- lưỡng bội). Sự thay thế các pha này ở các nhóm cơ thể khác
nhau mang đặc tính tiến hoá rõ rệt.
Người ta thường phân biệt 3 kiểu phân bào giảm nhiễm: khởi đầu, trung
gian, tận
cùng.
117
1/ Phân bào giảm nhiễm khởi đầu: còn gọi là phân bào giảm nhiễm hợp tử
là kiểu mà trong đó sự phân bào giảm nhiễm xảy ra ngay sau sự thụ tinh, tức là
ngay bước đầu phân chia hợp tử. (Thấy ở tảo và nguyên sinh động vật).
2/ Phân bào giảm nhiễm trung gian: còn gọi là phân bào giảm nhiễm bào
tử xảy ra trong quá tình hình thành bào tử. Thời kỳ nằm giữa 2 giai đoạn thể bào
tử và thể giao tử. Kiểu phân chia giảm nhiễm này đặc trưng cho phần lớn thực
vật.
3/ Phân bào giảm nhiễm cuối cùng: còn gọi là phân bào giảm nhiễm giao
tử, đặc trưng cho bọn động vật đa bào, một số đơn bào và thực vật bậc thấp (ví
dụ: tảo nâu).
Sau đây trình bày sự phân bào để hình thành giao tử ở động vật làm ví dụ:
Quá trình phân bào giảm nhiễm gồm hai lần phân chia tiếp nhau được gọi
là phân chia I và phân chia II. Lần phân chia I là lần phân chia giảm nhiễm,
phân chia II là phân chia cân bằng- giống phân bào nguyên nhiễm.
Các kỳ của phân bào giảm nhiễm được biểu thị bằng sơ
đồ sau đây: Kỳ đầu I (prophase): - Leptonem (sợi mảnh)
- Zigonem (sợi tiếp hợp)
- Pachinem (co ngắn)
- Diplonem (sợi kép)
- Diakinese (hướng cực)
Kỳ giữa I
(metophase) Kỳ
sau I (anaphase)
Kỳ cuối I
(telophase) Kỳ xen
kẽ: interkinese Kỳ
giữa II
Kỳ sau II
Kỳ cuối II
3.1. Phân chia I:
3.1.1. Kỳ đầu I: Kỳ đầu I có thể kéo dài vài giờ, vài ngày hoặc vài tuần lễ, có khi
kéo dài hàng năm như quá trình sinh trứng ở động vật có vú. Sở dĩ kéo dài như
vậy vì trong thời gian này là giai đoạn sinh trưởng của tế bào sinh dục. Và dài
hay ngắn tuỳ theo các nhóm động vật khác nhau.
Mặt khác chính trong thời kỳ này xảy ra những quá trình phức tạp có liên
quan đến sự tiếp hợp và trao đổi chéo của các NST tương đồng nên cần có thời
gian.
*Giai đoạn Leptonem: Ở giai đoạn này trong nhân xuất hiện nhiều sợi
nhiễm sắc dài, có hạt nhiễm sắc và có vân ngang.
Số lượng sợi nhiễm sắc tương ứng với số lượng NST 2n. Các sợi này có
cấu trúc xoắn đôi và rất khó nhận biết các NST trong giai đoạn này.
118
*Giai đoạn zigonem: Giai đoạn này bắt đầu khi các NST tương đồng
liên kết với nhau từng đôi một. Một chiếc trong cặp NST tương đồng có nguồn
gốc từ bố, chiếc kia có nguồn gốc từ mẹ (từ giao tử đực và giao tử cái). Sự tiếp
hợp của các NST tương đồng xảy ra một cách chính xác. Có thể đính với nhau
từ đầu mút sau đó kéo dài dọc NST, cũng có thể đính với nhau ở nhiều đoạn
cùng một lúc. Nhờ sự tiếp hợp mà các hạt nhiễm sắc, các điểm của sợi nhiễm
sắc tương đồng này có thể tiếp cận với các hạt, các điểm của sợi tương đồng kia.
Trong suốt quá trình tiếp hợp NST vẫn giữ nguyên là một thể toàn vẹn.
Điểm đặc trưng để nhận biết giai đoạn Zigonem là sự tiếp hợp của các cặp
NST tương
đồng.
119
*Giai đoạn pachinem:
Giai đoạn này tương đối dài, trong giai đoạn này sự tiếp hợp của các NST
tương đồng kết thúc. Các NST tương đồng vẫn nằm tiếp cận nhau, chúng dày
lên và co ngắn lại.
Các NST ở đây đều là sợi đôi do 2 NST tương đồng dính sát vào nhau
theo chiều dọc và được gọi là thể lượng trị (bivalent) gồm 2 đơn trị (mỗi NST
tương đồng). Chúng có cặp tâm động riêng. Mỗi lưỡng trị có hai tâm động và
gồm 4 sợi NST (chromatid).
Trong giai đoạn này xảy ra hiện tượng trao đổi chéo giữa các cặp NST
tương đồng. Quá trình này được gọi là sự trao đổi chéo, trong đó 2 NST tương
đồng trao đổi các cấu thành có chứa gen cho nhau.
Hình 6.4. Giảm phân I - Sự phân chia các cặp NST tương đồng
Hiện tượng trao đổi chéo có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt di truyền
vì nó dẫn đến sự tái tổ hợp của gen.
*Giai đoạn diplonem:
Ở giai đoạn này các NST tiếp tục co ngắn lại.
Đặc trưng của diplonem là xuất hiện các lực đẩy giữa các thành viên tiếp
hợp mà bắt đầu là từ tâm động, kết quả là các NST tương đồng tách nhau ra (các
đơn vị tách ra).
Nhưng sự tách ra không xảy ra toàn bộ chiều dọc, mà chúng vẫn dính với
nhau ở điểm trao đổi chéo, điểm đó gọi là hình chéo. Thường người ta xem hình
chéo là dẫn chứng tế bào của hiện tượng trao đổi chéo đã xảy ra ở diplonem.
Ở diplonem xảy ra hiện tượng chuyển dịch hình chéo dọc theo NST từ tâm
động về đầu mút. Sự chuyển dịch này gọi là mút hóa. Đồng thời có 1 dạng
chuyển động nữa là sự quay của NST.
*Giai đoạn diakinese.
120
Ở giai đoạn này NST càng co ngắn lại. Các đơn trị tách nhau ra và
thường nằm ở ngoại vi của nhân. Quá trình mút hóa của hình chéo tiếp tục, số
hình chéo giữa NST mất dần vào đầu kỳ giữa I các NST chỉ dính với nhau ở
chéo tận cùng.
121
3.1.2.Kỳ giữa I:
Bắt đầu khi màng nhân bị phá hủy, các lưỡng trị xếp ở xích đạo và thoi
phân chia được hình thành.
Các lưỡng trị xếp ở xích đạo theo kiểu cả 2 NST của mỗi cặp tương ứng
đều hướng tâm động của mình về các cực đối diện. Các tâm động càng đẩy nhau
mạnh hơn và các NST chuẩn bị để phân ly về 2 cực.
3.1 Hình 6.5. Giảm phân I - Kỳ đầu - Kỳ giữa - Đầu kỳ sau - cuối kỳ sau - Kỳ cuối
3. Kỳ sau I:
Trong bộ 4 (lưỡng trị) mỗi đôi NST (đơn trị)vẫn dính với nhau ở tâm động
tách khỏi
đôi kia và lập thành 2 bộ 2, và mỗi bộ 2 đi về 1 cực cuả tế bào.
3.1.4. Kỳ cuối I:
Ở Kỳ cuối các đơn trị (bộ 2) -gồm 2 nhiễm sắc tử đã đến các cực. Màng
nhân, hạch nhân được tái tạo và vào cuối kì cuối thì tế bào chất phân chia để
hình thành nên hai tế bào con.
Như vậy các tế bào con có nhân chứa bộ nhiễn sắc thể đơn bội nên
người ta gọi lần phân chia I là phân chia giảm nhiễm. Nghĩa là từ bộ NST lưỡng
bội thành bộ NST đơn bội.
3.1.5. Kì xen kẽ (interkinez):
Kì xen kẽ là kì nằm giữa lần phân chia I và II của giảm phân. Kỳ xen kẽ
không xảy ra hiện tượng nhân đôi nhiễm sắc thể cũng như không có nhân đôi
AND như ở gian kì, kì xen kẽ nói chung rất ngắn.
3.2. Phân chia II:
Lần phân chia II của giảm phân xảy ra giống như nguyên phân.
Kỳ đầu II:
Kỳ này nói chung rất ngắn, có khi không có, các bộ hai vẫn còn dính với
nhau ở tâm động, nhưng các vai đã bắt đầu đẩy nhau ra.
Kỳ giữa II:
Các NST kép xếp hàng 1 ở mặt phẳng xích đạo.
Kỳ sau II:
Tâm động của mỗi bộ hai chia đôi, các NST con (nhiễm sắc tử ) trượt trên
thoi, phân ly về hai cực và mỗi nhiễm sắc tử lúc này được gọi là 1 NST
Kỳ cuối II: Ở kỳ cuối hai xảy ra sự phân chia tế bào chất.
122
Hình 6.6. Sơ đồ giảm phân II
Vì ở lần phân chia hai, yếu tố phân chia về hai cực là các NST con
(nhiễm sắc tử) nên được gọi là phân chia cân bằng. Kết quả ta có các tế bào con
với bộ NST đơn bội.
Hình 6.6. Giảm phân II
124
lẫn gen mẹ. Như vậy sự trao đổi chéo đã tái tạo lại thành phần gen của NST và
đó là cơ chế quan trọng bảo đảm cho sự tổ hợp đa dạng của vật chất di truyền.
3. Giảm phân bảo đảm sự phân bố lại các NST ở các tế bào con. Ta thấy
sự phân ly các phân tử của cặp lưởng trị (các NST tương đồng) xảy ra một cách
ngẫu nhiên và phân bố về các cực với xác suất như nhau. Do đó qua giảm phân
các NST có thể được sắp xếp lại. Nghĩa là sẽ tăng tầng số tổ hợp đa dạng của
NST bố và mẹ trong đơn bội của tế bào sinh dục.
Số lượng các tổ hợp đối với bất kỳ bộ NST lưỡng bội (2n) là 2n (n là số
NST đơn bội). Ví dụ người 2n = 46 thì tổ hợp có thể có trong khi phân bố
của các NST tương đồng là
23
2 . Như vậy qua giảm phân một cơ thể sẽ hình thành nên nhiều tế bào sinh dục
khác nhau và
do đó sẽ xuất hiện các thế hệ con cái rất đa dạng
Bảng 6.1. So sánh các đặc tính chủ yếu của nguyên phân và
giảm phân
126
Hiện tượng nội phân thường gặp ở động vật không xương sống, động vật
có xương sống và cả thực vật.
Thường người ta phân biệt 2 kiểu nội phân:
-Nội nguyên phân (endomitose)
-Đa sợi hóa (polytenia)
Nội nguyên phân là trường hợp có sự nhân đôi NST nhưng màng nhân
không bị phá hỏng và tế bào không chia đôi. Và nếu hiện tượng nội nguyên
phân tiếp tục sẽ hình thành các nhân khổng lồ và đa bội rất lớn. Hiện tượng nội
nguyên phân rất phổ biến trong giới sinh vật.
Đa sợi hóa là khi các sợi nhiễm sắc thể trong NST được nhân đôi, nhưng
không tách ra khỏi NST do đó số lượng sợi trong mỗi NST tăng lên mà NST
không tăng và không có sự phân chia tế bào. Hiện tượng đa sợi cũng sẽ dẫn đến
đa bội hóa và khối lượng nhân cũng như khối lượng tế bào chất đều tăng ứng với
mức đa bội.
Hiện tượng đa sợi hóa thường gặp ở ấu trùng côn trùng hai cánh NST
khổng lồ ở tuyến nước bọt bọn này chính là do hiện tượng đa sợi hóa.
5. Sự phân bào trực phân (amitose)
Phân bào trực phân là trường hợp phân bào mà không hình thành các cấu
trúc sợi như NST, thoi phân bào. Khi tế bào trực phân thì nhân kéo dài rồi thắt
lại thành hai nửa. Hai nửa nhân này có thể đều hoặc không đều nhau hoặc có thể
phân thành nhiều mảnh không đều nhau. Sau khi nhân đã phân chia thì tế bào
chất có thể phân chia để cho ra các tế bào con, nhưng trong nhiều trường hợp tế
bào không phân chia và hình thành tế bào nhiều nhân.
Nghiên cứu hiện tượng trực phân hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Vì
cho đến nay con người chứa xác định được sự tương ứng giữa hiện tượng sự
phân đôi ADN và nhiễm sắc thể với hiện tượng trực phân. Theo ý kiến của đại
đa số các nhà di truyền tế bào cho rằng: trực phân không phải là phương thức
sinh sản chính của tế bào và ý nghĩa sinh học của chúng không lớn.
Hiện tượng trực phân thường xảy ra ở các mô đã chuyển hóa, hoặc bị
bệnh. Ví dụ: bệnh ung thư.
6. Sự hình thành giao tử ở người:
6.1. Sự phát sinh tinh trùng:
Các tế bào sinh tinh phải trải qua nhiều lần phân bào nguyên nhiễm ở giai
đoạn mà tế bào có tên là tinh nguyên bào. Hai lần phân bào sau cùng của quá
trình tạo giao tử là giảm phân. Bắt đầu từ khi nam giới tới tuổi dậy thì thì các
tinh bào bước vào giảm phân. Hiện tượng này xảy ra liên tục ở cá thể từ tuổi dậy
thì cho đến lúc chết.
Sau nhiều lần phân bào, tinh nguyên bào ngừng phân chia, tăng kích
thước và được gọi là tinh bào I.
Tinh bào I vào giảm nhiễm I để tạo nên hai tinh bào II. Mỗi tinh bào II
vào giảm nhiễm II. Mỗi tinh bào II vào giảm nhiễm II để tạo ra 4 tinh tử đơn
bội. Các tinh tử sẽ phát triển thành tinh trùng có các ti thể dồn lại tập trung
quanh cổ tinh trùng phục vụ cho sự vận127động sau này của tinh trùng.
Điều đáng chú ý là cả 4 tinh tử đều tồn tại và chuyển thành tinh trùng.
6.2. Sự phát sinh trứng
Ở người cũng như động vật có vú nói chung, sự phát sinh trứng khác với
sự phát sinh tinh trùng.
Các tế bào sinh trứng ( trứng ở đây là noãn cầu) phải trải qua nhiều lần
phân bào nguyên nhiễm, ở giai đoạn này chúng có tên là noãn nguyên bào. Hai
lần phân bào sau cùng của quá trình tạo noãn cầu là giảm phân.
128
Sau nhiều lần phân bào, noãn nguyên bào ngừng phân chia, tăng kích
thước để trở thành noãn bào I. Noãn bào I đã được hình thành từ giai đoạn phôi
muộn, khoảng tháng thứ năm từ sau hợp tử hình thành, sau giai đoạn thể kép
(diploten) của kỳ đầu I., tế bào bước vào giai đoạn mà NST có hình cái chổi
lông và được gọi là giai đoạn thể lưới. Tế bào bị hoãn ở giai đoạn này trong
nhiều năm. Sau khi được sinh ra, phần lớn noãn bào bị thoái hóa. Sau tuổi dậy
thì noãn bào bắt đầu phát triển, kết thúc lần phân bào giảm nhiểm I và bước vào
kỳ xen kẽ và kỳ giữa II, và lúc này chính là lúc trứng “rụng” và sự giảm phân
chỉ kết thúc sau khi đã thụ tinh. Sau giảm nhiễm I, và khi đã vào kỳ giữa II thì
“trứng” có thể rụng để sẵn sàng đón tinh trùng. Trứng lúc này gồm có một noãn
bào II và một cực cầu I và quá trình giảm nhiễm sẽ kết thúc (tức là lúc noãn bào
II cho noãn cầu và một cực cầu II, noãn cầu I cho hai noãn cầu II) khi trứng
được thụ tinh bởi tinh trùng.
Ở người mỗi tháng “ trứng “ rụng một lần, lần đầu tiên xung quanh tuổi
13 và lần cuối cùng xung quanh tuổi 50.
Sự kết thúc lần phân bào I cho hai tế bào: một là noãn bào I, một là cực
cầu I. Cả hai tế bào đều bước vào lần phân bào II, noãn bào II cho hai tế bào:
một là nõan cầu và một là cực cầu II, cực cầu I cho hai cực cầu II.
Kết quả sau hai lần phân bào được 4 tế bào đơn bội nhưng chỉ một là phát
triển được thành noãn cầu thành thục tức trứng, mang đầy đủ nguyên liệu bào
tương cần dùng cho sự thụ tinh mà thôi. Ba tế bào kia, các cực cầu thì hầu như
không có bào tương.
Như vậy là giữa nam và nữ, sự phân bào giảm nhiễm có những điểm khác
căn bản. Ở nam, sự phân chia để tạo tinh là liên tục kể từ khi bắt đầu cho đến khi
cá thể chết và tất cả các tế bào sinh ra đều đi đến tinh trùng thuần thục và sự
thuần thục là không cần đợi đến lúc thụ tinh.
Ở nữ, sự phân chia để tạo noãn vừa không nhiều bằng tạo tinh, vừa dừng
lại từ trong phôi. Quá trình giảm phân thì bị gián đoạn ở cuối kỳ đầu I để lại tiếp
tục hàng mươi, mười lăm năm sau, và để kết thúc hoàn toàn thì phải có điều kiện
là được thụ tinh.
Một điều khác nữa là noãn bào bị thoái hóa nhiều chỉ có một số ít đi đến
đích, mà trong số ít ấy chỉ có một phần tư là hình thành trứng, một đặc điểm đặc
trưng của động vật có vú nuôi con non trong bụng mẹ.
129
117
Chương 7
SINH HỌC PHÁT TRIỂN
Ở động vật quá trình phát triển cá thể bắt đầu từ sự hình thành các tế bào
giao tử đơn bội rồi thụ tinh thành tế bào hợp tử lưỡng bội duy nhất. Tế bào hợp
tử đầu tiên này sẽ phân cắt, phát triển, biệt hóa thành các mô, các cơ quan bộ
phận cấu thành cơ thể hoàn chỉnh. Trong khi phát triển có sự lặp lại phản ánh
một phần lịch sử quá trình tiến hóa của tổ tiên chúng.
Dưới ánh sáng của di truyền học hiện đại người ta hiểu rằng trong quá
trình tiến hóa lâu dài, bộ máy di truyền của mỗi loài sinh vật cũng biến đổi mang
tính chất kế thừa tiến hóa ghi lại trong cấu trúc bộ gene. Bộ gene của mỗi cá thể
của loài đều giữ lại những cấu trúc thông tin di truyền chính nhất của lịch sử quá
trình tiến hóa. Đó chính là nguyên nhân của các hiện tượng lặp lại tính chất tổ
tiên. Các biến đổi của tế bào, phát sinh hình thái, biệt hóa chính xác các vùng
phôi trong sự phát triển của phôi cũng như trong toàn bộ quá trình phát triển cá
thể
Quá trình phát triển cá thể của mỗi sinh vật là quá trình từ khi sinh ra
mầm mống của cơ thể mới phát triển qua các giai doạn cho tới khi già và chết
của cá thể. Đây là một quá trình động, diễn biến liên tục và có quy luật gồm
nhiều giai đoạn phát triển kế tục nhau, giai đoạn này kết thúc làm nền tảng mở
đầu cho giai đoạn khác kế tiếp theo những con đường tương đối chặt chẽ đã
được chương trình hóa trong bộ gene.
Đối với ngành động vật có xương sống, quá trình phát triển cá thể qua
hình thức sinh sản hữu tính gồm một số giai đoạn chính như sau:
1. Giai đoạn tạo giao tử
2. Giai đoạn tạo hợp tử
3. Giai đoạn phôi thai
4. Giai đoạn sinh trưởng
5. Giai đoạn trưởng thành
6. Giai đoạn già lão
7. Giai đoạn tử vong
I. Giai đoạn tạo giao tử-các tế bào sinh dục
Sự phát triển của cá-thể-mới được bắt đầu từ sự hình thành tế bào sinh dục ở
thế hệ bố
mẹ.
Có hai loại tế bào sinh dục: Tế bào sinh dục đực thường là tinh trùng được
hình thành
tại tinh hoàn và tế bào sinh dục cái được tạo thành tại buồng trứng.
1. Tinh trùng
Tinh trùng là một tế bào nhỏ, có khả năng di động. Cấu tạo điển hình của
tinh trùng
gồ
m: - Phần đầu: 117
118
Chứ một nhân lớn choán gần hết thể tích của đầu, xung quanh được bao bằng một
a lớp
bào tương rất mỏng và không có bào quan. Phía trước đầu có một khối nguyên
sinh chất nhỏ là thể đầu chủ yếu do bộ máy Golgi của tinh tử tạo thành. Phía
trước thể đầu chất nguyên sinh đặc lại và dày lên hình chóp nhọn (mũ) có tác
dụng như một cái khoan để di chuyển kiểu xoáy vào môi trường nước. Phần này
có chứa lysine và hyaluronidase có tác dụng dung giải màng ngoài của trứng khi
thụ tinh và một số chất khác giúp cho sự tiếp xúc với màng sinh chất của trứng
và tham gia cả chức năng hoạt hóa.
118
119
- Phần cổ: Cổ là một băng sinh chất mỏng nối giữa đầu và đuôi, có chứa
trung thể gần nằm ở phía tiếp giáp với đầu và trung thể xa ở phía tiếp giáp với
đuôi. Các trung tử này có vai trò quan trọng trong sự phân cắt của hợp tử.
- Phần đuôi: Đuôi có một sợi trục do nguyên sinh chất đặc lại chạy dọc
suốt chiều dài của đuôi. Đuôi gồm ba đoạn:
+ Đoạn trung gian nằm tiếp với phần cổ. Đoạn này có bao lò so bao
quanh sợi trục do ti lạp thể biến dạng dính với nhau tạo thành, tham gia vào hoạt
động chuyển hóa cung cấp năng lượng cho vận động của tinh trùng. Sát với cổ
có trung thể xa. Sát với đoạn chính màng, bào tương dày lên tạo thành hình vòng
nhẫn.
+ Đoạn chính của đuôi: kích thước dài, cấu tạo gồm sợi trục ở giữa,
xung quanh được bao bằng một lớp nguyên sinh chất mỏng. Ở nhiều loài, xung
quanh sợi trục còn được bao bằng 9 sợi ống kép xếp đối xứng quanh trục. Đó là
các ống vi thể có chứa tubulin và dynein là protein vận động tham gia vào chức
năng vận động của đuôi.
+ Đoạn cuối của đuôi ngắn, chỉ có sợi trục nằm trần được bao bọc bởi
màng tế
bào.
- Có nhiều ribosome tự do không liên kết với lưới nội sinh chất có hạt
hoặc tạo thành polysome.
- Chứa nhiều ti thể
- Trữ lượng DNA rất lớn, có các dạng DNA vi khuẩn và đoạn DNA tự do
trong bào
tương
120
121
Lớp vỏ của tế bào trứng là sự phối hợp của màng sinh chất và các lớp bào
tương kế cận. Lớp vỏ thường đặc, chứa các hạt có bản chất mucosaccharide và
nhiều sắc tố khác nhau, phân bố không đều tạo nên tính phân cực của trứng và
chịu trách nhiệm tổ chức cấu trúc trứng và phân bố các chất noãn bào, chất gây
biệt hóa ba lá phôi. Lớp ngoài của cực sinh vật chứa các yếu tố tạo lá phôi ngoài.
Vùng ngang đới xích đạo của lớp vỏ chứa các yếu tố tạo lá phôi trong; vùng cực
thực vật của lớp vỏ chứa các yếu tố tạo lá phôi giữa. Lớp vỏ tham gia vào các
quá trình khác nhau và có hoạt tính sinh học cao.
Tế bào trứng chin là tế bào đang phát triển dừng lại khi đang trong giai
đoạn phân bào giảm nhiễm, hoặc dừng lại khi nhiễm sắc thể đang ở trạng thái bộ
bốn của giai đoạn diakinesis của lần phân bào giảm nhiễm I hoặc sau khi hoàn
thành lần phân bào I và đã bài xuất cực cầu I hoặc sau khi bài xuất cực cầu II
(đặc biệt ở cầu gai). Lúc này trứng ở trạng thái ngưng trệ, bất động sinh lý,
không có khả năng phân chia; protein không được tổng hợp và các enzymee gần
như bị ngưng trệ.
Tùy theo hàm lượng và sự phân bố của noãn hoàng trong trứng mà trứng
được chia thành bốn loại sau:
- Trứng đẳng hoàng (cá lưỡng tiêm, cầu gai) có lượng noãn hoàng ít và
phân bố đều trong bào tương nhân nằm giữa tế bào.
- Trứng đoạn hoàng:
Là trứng có noãn hoàng tập trung rõ rệt ở cực dưới gọi là cực dinh dưỡng
(animal pole); bào sinh chất và nhân nằm ở cực trên gọi là cực sinh vật (vegetal
pole) – trục đi qua hai cực gọi là trục của trứng. Có hai loại trứng đoạn hoàng:
+ Loài có lượng noãn hoàng vừa là trứng của các loài lưỡng thê (ếch, nhái).
+ Loài có trứng noãn hoàng nhiều như bò sát, chim
- Trứng vô hoàng: Không có noãn hoàng – là trứng của động vật có vú
- Trứng trong hoàng: Noãn hoàng ít nằm trong tâm của trứng, xung quanh
nhân. Đó là trứng của các loài côn trùng.
II. Giai đoạn tạo hợp tử
Do sự gặp gỡ ngẫu nhiên hoặc có chọn lọc của các cơ thể bố mẹ cùng loài
và sự bài xuất đồng thời của các cơ thể bố mẹ cùng loài và sự bài xuất đồng thời
của các giao tử đã chin thành thục qua hình thức thụ tinh ngoài hoặc thụ tinh
trong, tinh trùng sẽ di chuyển để đến gặp trứng và xâm nhập vào tế bào trứng, đó
là quá trình thụ tinh. Mỗi lần phóng tính có thể có tới vài tổ tinh trùng song
thường chỉ có một tinh trùng thụ tinh với trứng thôi.
Về bản chất thụ tinh gồm ba giai đoạn:
- Giai đoạn kết hợp của hai bộ phận nhân đơn bội khác nguồn để tạo thành
bộ nhân lưỡng bội của tế bào hợp tử duy nhất, khởi nguồn cho cơ thể mới.
- Giai đoạn hoạt hóa tế bào trứng
- Giai đoạn hình thàng màng thụ tinh.
121
122
123
124
2. Đặc điểm:
- Trong giai đoạn phôi thai, quá trình cá thể phát sinh lặp lại một số giai
đoạn chính của hệ thống chủng loại phát sinh
- Tốc độ sinh sản tăng trưởng của tế bào và cơ thể cực kỳ mạnh mẽ
- Có quá trình biệt hoá tế bào từ dạng đồng nhất nguyên ủy trở thành khác
biệt về hình thái và chức năng, tập hợp thành các mô và cơ quan, hệ thống cơ
quan khác nhau.
-Sự phát triển không vững chắc. Trong các giai đoạn sớm, thai rất mẫn
cảm với các tác nhân độc hại của ngoại cảnh, dễ phát triển sai lệch tạo thành
quái thai, sẩy thai, teo, chết.
3. Phân loại:
Dựa vào đặc điểm phát triển của phôi người ta chia động vật thành hai
nhóm: Nhóm hai lá phôi và nhóm ba lá phôi (Hải miên, xoay trùng và giun
đốt/Động vật có xương sống)
Nếu phôi phát triển nhờ vào dinh dưỡng của trứng thì gọi là
noãn thai sinh Nếu phôi phát triển nhờ cơ thể mẹ thì gọi là thai
sinh.
Ở động vật có xương sống, dựa vào sự phân hóa tế bào phôi trong quá
trình phát triển người ta chia ra hai nhóm – phôi phát triển không màng ối (toàn
bộ trứng đều biến thành phôi thai như ở cá, lưỡng thê) và phôi phát triển có
màng ối (bò sát, chim, thú) trong quá trình phát triển chỉ có một bộ phận tế bào
sinh ra từ hợp tử phát triển thành phôi còn một bộ phận khác phát triển thành
dưỡng mô – Riêng động vật có vú trên cơ sở màng ối còn có dây ray để hút chất
bổ từ cơ thể mẹ và thải chất bài tiết ra ngoài qua cơ thể mẹ.
* Sự phân cắt và phát triển của trứng vô hoàng
Trứng của các động vật có vú không có hoặc có rất ít noãn hoàng.
- Đặc điểm: Sự phân cắt là hoàn toàn nhưng không đều. Các tế bào phân
cắt từ hợp tử sớm biệt hóa, một phần phát triển thành phôi thai, còn một phần
phát triển thành lá nuôi. Các tế bào lá nuôi sẽ biệt hóa thành nhau thai để cung
cấp chất dinh dưỡng cho thai.
- Quá trình diễn biến:
Ba lần phân cắt đầu tương tự như ở trứng đoạn hoàng, kết quả cho bốn
phôi bào nhỏ ở phía trên và bốn phôi bào lớn ở phía dưới.
Các phôi bào nhỏ có tốc độ phân chia nhanh hơn các phôi bào lớn, lan ra
thành một lớp bao ngoài phối phôi bào lớn. Lớp này về sau tạo thành lá nuôi
phôi, còn khối phôi bào lớn tạo thành mầm thai.
Giữa khối phôi bào lớn và lá nuôi xuất hiện một khe giữa nước lớn dần
lên, nở to thành một xoang. Xoang này tương đương với xoang phôi nang ở
trứng đẳng hoàng, song bản thân phôi không phải là phôi nang vì lẽ các tế bào
của phôi đã biệt hóa thành hai dạng khác nhau. Khối phôi bào lớn bị dồn về một
cực (tương đương với dĩa phôi ở chim) và lại tiếp tục biệt hóa.
Một số phôi bào lớn ở phía dưới phát triển nhanh và biến dạng thành
124
các tế bào mỏng và dẹt bao lấy mặt dưới của khối phôi bào lớn tạo thành
125
lá dưới (tức lá phôi tương lai) và đồng thời phát triển lan xuống phía dưới lót lấy
mặt trong của lá nuôi tạo thành túi noãn hoàng (tuy không có noãn hoàng). Các
phôi bào lớn còn lại ở phía trên dàn ngang và bè ra tạo thành lá phôi ngoài,
màng ối và xoang ối. Lá phôi giữa được hình thành bằng cách di bào từ mép
phôi lan vào xen giữa hai lá phôi ngoài và trong.
Màng ối và xoang ối của các loài động vật có vú khác nhau có các cách
hình thành khác nhau như : tách lớp xâm thực và tiết dịch hoặc di bào hoặc kết
hợp cả mấy cách trên. Ở người, xoang ôi được hình thành ở phía trên lớp lá phôi
ngoài và phía dưới lá nuôi do lớp tế bào trên cùng của khối phôi bào lớn tách
biệt khỏi lớp kế cận tạo thành một khe rồi phát triển thành xoang ối.
125
126
Lớp phôi bào lớn ở phía trên sát lá nuôi tạo thành màng ối
Lớp phôi bào lớn ở phía dưới xoang ối tạo thành lá phôi ngoài nằm kề lá
phôi trong. Như vậy lúc này phôi nằm xen giữa hai xoang, là xoang ối ở phía
trên và túi noãn hoàng ở phía dưới. Về126sau túi noãn hoàng thu nhỏ lại tạo ra ở
127
xung quanh phía ngoài túi và bên trong lá phôi một xoang ngoài phôi.
IV. Giai đoạn sinh trưởng
1. Định nghĩa:
Trong các sách khác nhau giai đoạn sinh trưởng có nhiều tên gọi khác
nhau – ví dụ giai đoạn kế phôi thai, giai đoạn sau phôi, giai đoạn hậu phôi.
127
128
Tiếp sau giai đoạn sau phôi là giai đoạn sinh trưởng, là giai đoạn màng ấu
trùng hoặc con non đã tách khỏi noãn hoàng, vỏ trứng hoặc cơ thể mẹ, dựa vào
“sự tự hoạt động” của bản thân để liên tục sinh trưởng, phát triển, để tăng tiến về
khối lượng, kích thước và chuẩn bị cơ sở vật chất cho sự chuyển biến về chất
sang giai đoạn thành niên tiếp đó.
2. Đặc điểm:
Trong giai đoạn này ấu trùng hoặc con non tự hoạt động hoặc để tăng tiến
về khối lượng và kích thước với tốc độ rất mạnh mẽ. Tốc độ tăng đồng hóa rất
lớn, cao hơn tốc độ dị hóa rất nhiều. Sự phát triển có thể chưa cân đối, chưa hài
hòa giữa các cơ quan; một số cơ quan chưa hoàn chỉnh; một số cơ quan có thể bị
mất đi hay được thay thế bằng các cơ quan mới trong giai đoạn trưởng thành. Cơ
quan sinh dục chưa phát triển hoặc chưa hoạt động được một cách có hiệu quả.
Khả năng thích nghi và chống đỡ với ngoại cảnh còn yếu.
3. Phân loại:
! Tùy theo đặc điểm sinh trưởng trong giai đoạn này mà các sinh vật
được xếp vào hai nhóm:
- Nhóm sinh trưởng có giới hạn: Các sinh vật này có cơ thể chỉ lớn lên
trong một số giai đoạn xác định của vòng đời. Gia tăng về khối lượng và kích
thước cơ thể chủ yếu chỉ diễn ra cho tới hết thời kỳ sinh trưởng, đạt tới một giới
hạn nhất định đặc trưng cho loài rồi dừng lại. Thuộc nhóm này có nhiều loài
chim, động vật có vú và người.
- Nhóm sinh trưởng không có giới hạn: Sự lớn lên của cơ thể ở các sinh
vật thuộc nhóm này diễn ra suốt đời sống của cá thể một cách liên tục (một số
loài bò sát).
! Tùy theo đặc điểm của kiểu phát triển hậu phôi, động vật được chia
làm hai nhóm:
- Nhóm phát triển trực tiếp (không biến thái): là nhóm động vật mà trong
giai đoạn sinh trưởng các cơ quan có sẵn từ trong giai đoạn phôi được hoàn
chỉnh thêm và thực hiện các chức năng ở sinh vật trưởng thành, không có sự
biến đổi hình thành dạng đại cương của cơ thể, không có sự mất cơ quan cũ và
xuất hiện cơ quan mới, thay thế cơ quan cũ (đa số các loài chim, động vật có vú,
người)
- Nhóm phát triển gián tiếp (có biến thái): trong giai đoạn phát triển, ấu
trùng hoặc con non phải trải qua một hoặc hai hoặc nhiều lần biến đổi sâu sắc
hình thái bên ngoài và cấu trúc bên trong rồi mới phát triển thành sinh vật trưởng
thành. Một số cơ quan được tạo thành ở giai đoạn phôi chỉ được duy trì ở giai
đoạn đầu của cuộc sống hậu phôi, sau đó được thay thế bằng những cơ quan mới
– gọi là sự phát triển hậu phôi có biến đổi (như ở lưỡng thê, muỗi)
! Trong giai đoạn sinh trưởng dựa trên khả năng hoạt động của ấu
trùng người ta phân biệt ra hai dạng:
- Dạng con non khỏe, có khả năng hoạt động ngay lập tức sau khi tách ra
khỏi noãn hoàng; vỏ trứng hoặc cơ thể mẹ (gà con, bê, nghé, hươu nai con…v.v)
- Dạng con non còn yếu: là dạng con non sau khi tách khỏi noãn hoàng,
vỏ hoặc cơ thể mẹ còn chưa phát triển128đầy đủ và cần bố mẹ chăm sóc một
129
thời gian (chim non, hổ non, trẻ sơ sinh).
V. Giai đoạn trưởng thành
1. Định nghĩa:
Là giai đoạn kế sau giai đoạn sinh trưởng – là giai đoạn mà sinh vật bắt
đầu có khả năng hoạt động sinh dục có nhiều hiệu quả và tiến hành các hoạt
động sinh dục tích cực để tạo ra các thế hệ mới, duy trì sự tồn tại của loài.
2. Đặc điểm:
Sự phát triển cơ thể nhảy vọt về vật chất. Cấu trúc mọi cơ quan trong cơ
thể đều hoàn chỉnh và thực hiện các chức năng sinh lý, sinh hóa một cách thuần
thục và phối hợp hoạt động
129
130
một cách hài hòa, cân xứng trong cơ thể. Quá trình đồng hóa, dị hóa mạnh mẽ và
cân bằng nhau tương đối; mọi hoạt động tích cực và mạnh mẽ; khả năng thích
nghi và chống chịu với ngoại cảnh cao; hoạt động sinh dục tích cực và có hiệu
quả; thời gian hoạt động sinh dục dài hay ngắn tùy thuộc vào từng loài, sau đó
khả năng hoạt động sinh dục giảm dần hoặc ngừng hẳn và cuộc sống cá thể
chuyển sang giai đoạn khác. Có sinh vật thời kỳ trưởng thành khéo dài hàng
chục năm, vài trăm năm; có loài chỉ hoạt động sinh dục một lần rồi chết; có loài
chỉ vài giờ.
3. Phân loại:
! Dựa vào cách thụ tinh trong giai đoạn trưởng thành người ta chia ra
các nhóm động vật khác nhau:
+Nhóm động vật tự thụ tinh: là động vật lưỡng tính, cơ quan sinh
dục đực và cái cùng ở trên một cơ thể và tự thụ tinh được. Thuộc nhóm này có
một số động vật bậc thấp (giun dẹp, giun đốt…)
+Nhóm động vật thụ tinh chéo: Gồm một số động vật lưỡng tính
bậc thấp như sán lá và toàn bộ các động vật bậc cao đơn tính có cơ quan sinh
dục đực và cái trên các cơ thể riêng biệt giữa hai các thể đực và cái. Đây là hình
thức tiến hóa cao của sinh vật.
+ Nhóm động vật thụ tinh ngoài: Sự thụ tinh của trứng và tinh trùng
tiến hành ngoài cơ thể mẹ - bố, trong môi trường nước (cá, lưỡng thê).
+ Nhóm động vật thụ tinh trong: sự thụ tinh xảy ra trong cơ thể cái.
Đây là hình thức tiến hóa cao, đảm bảo hiệu suất thụ tinh cao (động vật không
xương sống bậc cao, động vật có xương bậc cao, côn trùng, chim, động vật có
vú).
! Dựa vào phương thức bảo vệ con non mà người ta xếp động vật làm
hai loại:
+ Nhóm động vật đẻ trứng (cá, lưỡng thê, bò sát, chim)
+Nhóm động vật đẻ con (động vật có vú, người)
Ngoài ra một số loài vừa đẻ trứng vừa đẻ con như cá mập, một số thằn
lằn, một số côn trùng và rắn. Trứng chúng chứa đầy noãn hoàng. Sau khi được
thụ tinh trứng lưu lại khá lâu trong ống sinh dục con cái cho tới khi nở con. Tuy
vậy sự phát triển phôi không có liên quan chặt chẽ tới thành ống dẫn trứng cũng
nhưng không phụ thuộc dinh dưỡng vào cơ thể mẹ.
VI. Giai đoạn già lão
1. Định nghĩa
Là giai đoạn kế sau giai đoạn trưởng thành, bao gồm các biến đổi sâu xa
dẫn tới làm giảm hẳn khả năng hoạt động về mọi mặt của cơ thể trưởng thành à
gọi là sự lão hóa.
2. Đặc điểm
Đặc điểm đặc trưng của giai đoạn này là sự giảm sút khả năng hoạt động
sinh dục hoặc mất hẳn khả năng hoạt động sinh dục.
Khả năng hoạt động chức năng của các cơ quan của cơ thể giảm sút so với
giai đoạn trưởng thành. Quá trình thoái130bộ về cấu trúc và chức năng của các
131
cơ quan song song với sự giảm sút quá trình trao đổi chất, quá trình dị hóa mạnh
hơn đồng hóa.
Sự già hóa của từng cơ quan, hệ cơ quan khác nhau trong cơ thể bắt đầu
xảy ra ở những thời điểm khác nhau và tốc độ hoạt động đồng bộ, hài hòa của cơ
thể bị thương tổn. Sự hoạt động của các cơ quan này không đáp ứng đầy đủ nhu
cầu đòi hỏi của cơ quan khác, kết quả dẫn đến các loại bệnh giả khác nhau. Cá
thể sinh vật trở nên kém hoạt động về mọi mặt, khả năng thích nghi và chống đỡ
với ngoại cảnh giảm sút. Sự mất đồng bộ và cân đối giữa các cơ quan tạo nên
trạng thái “khủng hoảng lão hóa”. Sau một thời gian khủng hoảng dài hoặc ngắn
tùy loài và tùy thể trạng của từng cá thể sẽ dẫn tới một trong hai khả năng sau:
131
132
- Nếu sự già hóa diễn ra từ từ, sự khủng hoảng lão hóa không quá cấp tập,
cơ quan đã già nhưng vẫn còn đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của cơ
quan chưa già, kéo dài cho tới thời điểm khi toàn bộ các hệ cơ quan trong cơ thể
đều lão hóaà cơ thể chuyển sang trạng thái cân bằng mới, trạng thái cân bằng đại
lão. Ở trạng thái này mọi cơ quan của cơ thể hoạt động tương đối hài hòa và cân
bằng nhưng ở mức độ thấp hơn rất nhiều so với giai đoạn trưởng thành. Sự sống
của cá thể sinh vật tiếp tục kéo dài với sự kém hoạt động về mọi mặt.
- Nếu sự già hóa của một cơ quan nào đó trong cơ thể trong một giai đoạn
nào đó quá nhanh, quá cấp tập và ác liệt, không đáp ứng được những đòi hỏi của
các cơ quan khác một cách cơ bản, hoặc ngừng hoạt động thì sự sống của cá thể
chuyển sang giai đoạn tử vong.
VII. Giai đoạn tử vong
Là giai đoạn ngắn, dẫn tới sự chấm dứt cuộc sống của mỗi cá thể.
Khi bộ phân của cơ thể, một cơ quan hoặc một số cơ quan quan trọng
không thực hiện được chức năng sinh lý – sinh hóa của mình, về cơ bản không
đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan khác sẽ dẫn tới sự kiện là tính chất “tổng
thể hài hòa và phối hợp chặt chẽ” của cơ thể bị phá vỡ. Sự ngừng hoạt động của
cơ quan, bộ phận ấy kéo theo sự ngừng hoạt động của tất cả các cơ quan và bộ
phận khác trong cơ thể, dẫn tới cáci chết của cá thể. Đó là sự chết tự nhiên, hay
sự chết già.
VIII. Về cơ chế phát triển
1. Một số vấn đề di truyền và cơ sở phân tử của phát triển phôi sớm
1.1. Đặc điểm chung của hoạt động gen trong phát triển phôi sớm.
Giai đoạn phát triển phôi sớm là giai đoạn được đặc biệt chú ý vì những lí
do sau: Trong thời kỳ này bắt đầu biểu hiện các gen mới có trong hợp tử. Bắt
đầu hoạt động các quy luật hình thành phôi, sự biến đổi hệ thống đơn bào sang
hệ thống đa bào. Chính vào giai đoạn này cũng bắt đầu hoạt động các sản phẩm
của nhiều gen, được tổng hợp và tích lũy dự trữ trong nhân và trong tế bào chất
từ giai đoạn tạo noãn, gây nên một ấn tượng rõ rệt là thiếu sự kiểm soát gen đối
với quá trình phát triển phôi sớm, và rõ rệt là phát triển được kiểm soát bởi các
tác nhân tế bào chất. Để nghiên cứu giai đoạn này người ta sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phân tích các loại phân tử là sản phẩm hoạt động của gen trong phát
triển phôi sớm (như các ARN, các protein cấu trúc, các enzim).
- Nghiên cứu di truyền thực nghiệm như hủy nhân, cắt bỏ tế bào chất, v.v...
- Nghiên cứu tiềm năng của nhân, hoặc của các phôi bào khi tách riêng,
khi phối hợp các phôi bào, trong cấy nhân tế bào xôma vào trứng.
- Nghiên cứu quá trình phát triển sớm của các phôi có bộ gen bị biến đổi
như đơn bội, đa bội, với các sai lệch nhiễm sắc thể, các đột biến.
Dưới đây sẽ trình bày sơ lược một phần các kết quả quan trọng thu được.
1.2. Về hoạt động tái bản và phiên mã trong phát triển sớm
Trước tiên phải nói đến ADN vì nó là thành phần cơ bản của gen, đồng
thời có một mối tương quan nghịch132giữa tái bản và phiên mã. Khi ADN
133
tái bản cũng là lúc nó không có hoạt động phiên mã, đồng thời các hoạt động
phiên mã diễn ra mạnh vào thời kì không có tái bản. ở các quần thể phân chia
mạnh, hoạt động phiên mã thường rất yếu. ở các quần thể tế bào chuyên hóa, tế
bào ở pha Go, tức là không có tái bản ADN và không có phân bào.
Sau thụ thai, sự tái bản ADN và phân bào xảy ra liên tiếp. Thí dụ như ở cá
và lưỡng thê, chu kì tế bào chiếm khoảng 30 phút. Sự tổng hợp ADN, tức pha S,
chiếm 15 phút, như vậy chu kì tế bào chỉ gồm có hai pha S và M, tức là chỉ có
tổng hợp ADN và phân chia, không có các pha chuẩn bị G1 và G2. ở ruồi giấm
các phân cắt đầu tiên còn diễn ra nhanh hơn nữa, cứ 9 phút lại một lần phân
bào. Như vậy, trong suốt giai đoạn phân cắt không có hoạt động
133
134
phiên mã. Giai đoạn này dài hay ngắn tùy thuộc vào loại trứng. Người ta thấy có
một sự liên hệ giữa kích thước trứng và thời điểm bắt đầu hoạt động gen. Trứng
càng lớn, có nghĩa là lượng chất dự trữ càng lớn thì hoạt động gen bắt đầu càng
muộn, thí dụ như ở cá và lưỡng thê. ở các trứng nhỏ, nhỏ dưới 200 micromet
như ở động vật có vú, sự tổng hợp ARN (hay hoạt động gen) bắt đầu rất sớm,
ngay từ giai đoạn 2-4 phôi bào.
Trong thời kì tạo noãn, các ARN được tổng hợp với tốc độ rất cao tuy
nhiên rõ ràng là không có sự phối hợp về tổng hợp các loại ARN khác nhau. ở
đây ta thấy có sự lệch pha giữa tổng hợp tARN, 5S ARN với 28S và 18S ARN.
Sự bất phối hợp đó có lẽ là do các phân tử tổng hợp nên không phải để sử dụng
ngay mà để dự trữ cho các giai đoạn phát triển sau. Nhiều dẫn liệu chứng tỏ là
có tổng hợp ARN thông tin ở giai đoạn này và dự trữ các ARN đó cho giai đoạn
phát triển sau, tuy nhiên phát hiện, tách chiết và phân tích các ARN này là một
việc hết sức khó khăn.
Trong suốt thời kỳ thành thục hoàn toàn không có sự tổng hợp ADN hoặc
bất kỳ loại ARN nào.
Rất đặc biệt là trong gần suốt quá trình phân cắt không thấy có hoạt động
gen, không có hoạt động phiên mã các gen. Vào cuối giai đoạn phân cắt, bắt đầu
được hoạt hóa là các gen tARN và ARN không đồng nhất (người ta cho các
ARN không đồng nhất là các ARN thông tin, iARN), và sau đó các gen 28S,
18S và 5S ARN được đồng thời hoạt hóa và sự tổng hợp phối hợp với nhau với
tỷ lệ cần thiết cho quá trình tổng hợp protein.
1.3. Chu kỳ sinh hình của nhân trong phát triển phôi sớm
Năm 1959 đã xuất hiện phương pháp làm mất hoạt tính của nhân bằng
phóng xạ và đã tiến hành nhiều thí nghiệm quan trọng về vai trò của nhân trong
phát triển phôi sớm.
Nhân và tế bào chất rất khác nhau về độ mẫn cảm với chiếu xạ (chiếu xạ
ion hóa hoặc chiếu xạ tia cực tím). Nhân có độ mẫn cảm lớn hơn nhiều so với tế
bào chất, do đó có thể chọn liều chiếu xạ phá hủy hoàn toàn nhân mà không có
ảnh hưởng nhiều lắm tới tế bào chất.
Nghiên cứu được tiến hành trên phôi cá chạch với liều chiếu được chọn là
20Kr (kilorơnghen). Nếu phá huỷ nhân hợp tử phôi vẫn tiếp tục phân cắt, mặc
dù các phôi bào không chứa nhân. Phôi không nhân tiếp tục phát triển cho tới
giai đoạn phôi nang, tuy nhiên nó không thể bước sang tạo phôi vị được. Thí
nghiệm này cũng chứng tỏ là giai đoạn phân cắt và phôi nang không cần tới
nhân. ở chạch, trong nhiệt độ 210 C, phôi đạt tới giai đoạn phôi nang muộn mất
9 giờ và giai đoạn này cũng gọi là giai đoạn 9 giờ. Nếu chiếu xạ tiến hành 1-2
giờ sau thụ thai, kết quả cũng như vậy. Kết quả không thay đổi nếu chiếu vào
các giờ 4,5,6, phôi vẫn ngừng phát triển ở giai đoạn 9 giờ. Các thí nghiệm trên
chứng tỏ rằng các iARN tổng hợp và dự trữ trong tạo noãn đủ để đảm bảo cho
phôi phát triển trong 9 giờ đầu và trong 6 giờ đầu nhân không hoạt động.
Kết quả khác hẳn nếu chiếu xạ tiến hành vào giờ thứ bảy. Các phôi rõ
ràng là bắt đầu tạo phôi vị nhưng ngừng phát triển ở giai đoạn phôi vị sớm, giai
đoạn 12 giờ. Nếu chiếu xạ vào giờ thứ 8, phôi sẽ ngừng phát triển vào cuối
134
tạo phôi vị, giai đoạn 16 giờ. Chiếu xạ vào giờ thứ 9 phôi sẽ ngừng phát triển
135
chỉ sau khi hoàn thành tạo phôi vị. Như vậy 1 giờ hoạt động nhân sẽ đảm bảo
cho 3 giờ phát triển tiếp tục. Sự hoạt động nhân đảm bảo cho một quá trình tạo
hình của phôi, cho nên người ta gọi là hoạt động sinh hình của nhân và hoạt
động có tính chất chu kì gọi là chu kì hoạt động sinh hình của nhân trong phát
triển. Chu kì thứ nhất là thời kì hoạt động nhân vào các giờ 7, 8 và 9. Chiếu xạ
vào các giờ thứ 10, 11, 12 và 13 không ảnh hưởng tới tạo phôi vị. Chu kì hoạt
động sinh hình thứ hai của nhân vào các giai đoạn từ 14 tới 22 giờ. Giờ thứ 14
hoạt động nhân đảm bảo cho sự phát triển mầm thần kinh diễn ra vào giai đoạn
17- 28 giờ. Chiếu xạ vào giờ thứ 22 gây ngừng phát triển hệ thần kinh vào giờ
thứ 26 và ngừng phát triển thể tiết vào giờ thứ 32.
135
136
Tóm lại, ở lưỡng thê, phôi phát triển qua giai đoạn phân cắt nhờ các chất
dự trữ có trong trứng mà không cần có sự hoạt động của nhân. Vào cuối giai
đoạn phân cắt bắt đầu có hoạt động sinh hình của nhân đảm bảo cho quá trình
phát triển tiếp theo.
2. Quyết định và biệt hoá
2.1. Các khái niệm cơ bản
Như trong phần trên ta thấy, đầu tiên phôi là một tế bào, nó có một khả
năng là phát triển thành phôi nguyên vẹn. Trong phân cắt nó trở thành đa bào và
trong phôi bắt đầu có sự phân hoá, các tế bào thuộc các khu vực khác nhau sẽ trở
nên khác nhau, mỗi khu vực sẽ phát triển theo một hướng nhất định. Sự biến đổi
của một mầm hoặc một tế bào để cho nó trở nên khác với mầm khác hoặc tế bào
khác gọi là sự biệt hoá (differentiation). Các khu vực (hay các mầm) luôn luôn
phải trải qua một giai đoạn mà số phận của chúng có thể bị thay đổi để phát triển
theo hướng khác, như vậy một mầm có thể phát triển theo một số hướng hay nói
một cách khác là chúng đa tiềm năng. Do có giai đoạn này mà có sự điều chỉnh
phôi, có nghĩa là sự khôi phục tiến trình phát triển bình thường khi bị làm sai
lệch. Sự khôi phục này có được là do có sự thay đổi hướng phát triển của các
phần khác bù vào. Tuy nhiên theo tiến trình phát triển, một lúc nào đó sẽ xảy ra
sự kiện là các mầm thu hẹp tiềm năng lại và chỉ phát triển theo một hướng xác
định. Sự kiện đó gọi là sự quyết định (determination). Như vậy quyết định là sự
xác định hướng phát triển (hay còn nói là sự xác định số phận) của một khu vực
nào đó của phôi.
Một thời gian dài, phôi sinh học đi sâu tìm hiểu vấn đề là khi nào xảy ra
sự quyết định. Còn vấn đề tại sao, nguyên nhân gì gây nên sự quyết định thì khó
hơn nhiều và người ta mới chỉ có được một số câu trả lời mà phần nhiều còn
mang tính chất phán đoán.
2.2. Quyết định, biệt hoá và điều chỉnh ở giai đoạn sớm
Người ta có thể tiến hành các thí nghiệm làm sai lệch quá trình phát triển
để xem khả năng điều chỉnh phôi, và cũng tức là để tìm hiểu thời điểm xảy ra
quyết định.
ở giai đoạn chưa phân cắt, người ta hút bớt hoặc cắt bớt đi một phần tế
bào chất. ở giai đoạn phân cắt người ta có thể tách riêng các phôi bào, phối hợp
các phôi bào từ các vị trí khác nhau. Tuỳ theo khả năng điều chỉnh sau các thí
nghiệm như vậy, W. Roux phân biệt hai loại trứng: trứng điều hoà và trứng
khảm. Trứng điều hoà là trứng có khả năng điều chỉnh cao, còn trứng khảm gồm
các khu vực tế bào chất đã có số phận chắc chắn, không thay đổi được hướng
phát triển, do đó không có khả năng điều chỉnh.
Trứng có khả năng điều chỉnh cao nhất là trứng sứa-thuỷ tức, thí dụ như
Aegineta. Mỗi một trong số 32 phôi bào (ở giai đoạn 32 phôi bào) khi tách riêng
đều có thể phát triển thành một cơ thể bình thường.
Với trứng cầu gai đang phân cắt, nếu tách riêng theo các múi kinh tuyến
thì 1/8 phôi vẫn cho được một cá thể bình thường. Nếu tách riêng theo vĩ độ thì
các phôi bào cực động vật sẽ cho nhiều cấu trúc ngoại bì hơn, còn các phôi bào
từ cực thực vật sẽ cho phôi có nội bì136quá lớn. Điều đó nói lên có một sự
khác biệt về tiềm năng giữa phần động vật và phần thực vật. Sự khác biệt đó
137
có ngay từ khi chưa phân cắt, và hiện tượng đó được gọi là sự phân vùng noãn
bào chất trong trứng.
Trứng lưỡng thê cũng là loại trứng có khả năng điều chỉnh, tức là thuộc
loại trứng điều hoà. ở giai đoạn hai phôi bào, mỗi phôi bào nếu tách riêng đều
cho một cơ thể bình thường. Tuy nhiên các quan sát cho biết là trường hợp đó
chỉ xảy ra nếu rãnh phân cắt đi qua giữa liềm xám. Như vậy, có vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh ở đây là một loại nguyên liệu định khu ở vùng liềm
xám, đó chính là nguyên liệu dây sống-trung bì. Cần phải nói thêm là trước thụ
tinh ở trứng ếch mới chỉ phân biệt được hai khu vực là vùng động vật và vùng
thực vật. Sau thụ tinh mới xuất hiện vùng liềm xám.
137
138
Đối với động vật có vú, các thí nghiệm tách 2, 4 phôi bào cũng cho thấy
khả năng điều chỉnh hoàn toàn ở giai đoạn này. Thậm chí có thể ghép 2, 3, 4
phôi làm một và phôi hỗn hợp vẫn cho một cá thể bình thường.
Thuộc loại khảm là trứng của hải tiêu, sứa lược, giun tròn và các dạng
phân cắt xoắn. ở các loài nói trên, các phôi bào tách riêng chỉ cho những cấu trúc
mà trong phôi bình thường nó vẫn cho. Thí dụ như hải tiêu, sau thụ tinh đã có
thể phân biệt các trục đầu-đuôi và phải-trái. Một trong 4 phôi bào tách riêng sẽ
chỉ có 1/4 cơ thể, nửa đầu phải, nửa đầu trái, nửa đuôi phải hoặc nửa đuôi trái. ở
sứa lược có 8 lược bơi chạy dọc theo kinh tuyến. Một trong hai phôi bào tách
riêng sẽ cho con sứa chỉ có 4 lược, một trong 4 phôi bào chỉ cho sứa hai lược. ở
đây sự phân vùng noãn bào chất là rất xác định, dù có sự can thiệp của thực
nghiệm, số phận của từng vùng lược là không đảo ngược được. Phôi như vậy là
một thể khảm của các khu vực xác định.
Qua các phần thụ tinh và phân cắt ta đã biết là trong trứng có những loại
hạt đặc biệt, có các màu sắc và hình thái khác nhau mà người ta có thể theo dõi
được. Sự di chuyển và định khu các hạt đó như chỉ thị cho sự phân vùng noãn
bào chất.
Các thí dụ trình bày trên cũng cho ta thấy sự phân biệt hai loại trứng điều
hoà và khảm chỉ là tương đối, tuỳ thuộc vào thời điểm bắt đầu sự quyết định. Sự
quyết định sớm nhất là theo hai hướng: động vật cho ngoại bì và thực vật cho
nội bì, hướng thứ ba là trung bì xuất hiện muộn hơn một chút. Sự quyết định ở
các trứng khảm lại diễn ra sớm hơn.
Về cơ chế đưa tới sự phân hai vùng động vật và thực vật có giả thuyết của
Tshaild (Child C.M.,1936). Ông cho rằng sự xác định hai cực động vật và thực
vật do đặc tính phân bố mạch máu xung quanh nang trứng gây nên. Phần máu ở
gần gốc mạch nhiều oxi hơn sẽ cho phần động vật, phần thực vật hình thành ở
phần mạng mạch xa gốc hơn và ít oxi hơn. Trên thực tế vấn đề có lẽ phức tạp
hơn.
Với lưỡng thê, nhờ có phương pháp đánh dấu bằng các thuốc nhuộm
sống, vô hại mà người ta có thể theo dõi số phận của các khu vực khác nhau của
trứng mới thụ tinh hoặc của phôi nang. Bản đồ các khu vực đó trên bề mặt phôi
nang gọi là bản đồ số phận các khu vực đoán trước. Bằng phương pháp cắt riêng
các khu vực, đem nuôi cấy riêng rẽ hoặc cấy vào các khu vực khác, J.Holfreter
cho biết là ở giai đoạn phôi nang muộn, các khu vực có thể thay đổi hướng phát
triển. Thí dụ như miếng ngoại bì cấy vào vùng trung bì có thể phát triển phù hợp
với vị trí mới để tạo trung bì. Tuy nhiên tới giai đoạn phôi vị muộn, hướng phát
triển của các mầm đã xác định. Phôi lúc này như một thể khảm các khu vực có
số phận xác định. Lúc này phôi bị mất mầm nào thì cơ thể phát triển nên sẽ thiếu
phần đó. Không một khả năng điều chỉnh nào có thể có ở giai đoạn này. Đặc biệt
là chưa có một sai khác nào đáng kể về hình thái giữa các mầm và người ta cho
rằng giai đoạn này mới xảy ra sự biệt hoá về hoá học.
2.3. Vai trò của vị trí phôi bào ở động vật có vú
Như trên ta thấy, ở bọn không ối, sự xác định hai hướng lớn sơ khởi (nội
bì và ngoại bì) có thể là do sự sai khác noãn bào chất.
138
Ở động vật có vú, sau phân cắt, các tế bào biệt hoá trước tiên theo hai
139
hướng: nút phôi và lớp dưỡng bào. Nhiều thí nghiệm cho thấy vị trí các phôi bào
(trong quan hệ với tế bào xung quanh) đã quyết định hai hướng đó. ở giai đoạn 4
phôi bào, mỗi phôi bào tách riêng đều có thể cho một phôi toàn vẹn. Do phân cắt
không đồng thời nên có thể có các giai đoạn 5-7 phôi bào. ở giai đoạn này đã có
ít nhất một tế bào được bao bọc toàn bộ bởi các tế bào khác. Một thời gian ngắn
sau khi ở vị trí này tế bào trở nên thiên về khả năng phát triển thành nút phôi,
đồng thời các tế bào có một mặt tiếp xúc với bên ngoài sẽ được quyết định để
phát triển thành dưỡng bào (lá nuôi). Nếu ở giai đoạn 8 phôi bào người ta tách
riêng từng phôi bào thì mỗi phôi bào không cho được một phôi nguyên vẹn nữa
và đa số sẽ cho túi phôi không có nút phôi.
139
140
Thí nghiệm ghép các phôi thuộc các dòng chuột khác nhau cũng cho kết
quả tương tự. ở giai đoạn 8 phôi bào có thể bao quanh một phôi dòng chuột
thuần đen bằng 14 phôi thuộc dòng chuột thuần trắng. Hỗn hợp 15 phôi này sẽ
phát triển như một phôi. Do thân phôi chỉ phát triển từ nút phôi nên chuột sinh ra
sẽ là luôn luôn là chuột đen mà không có chuột trắng. Ngược lại cũng vậy, nếu
đem 14 phôi dòng đen bao quanh một phôi dòng trắng thì kết quả sẽ cho chuột
con trắng do các tế bào bao quanh chỉ phát triển thành dưỡng bào mà không cho
thân phôi. Tóm lại vị trí trong phôi cũng chỉ là một nguyên nhân xác định hướng
phát triển của mầm phôi.
2.4. Sự cảm ứng phôi
Trên các thí nghiệm tách các phôi bào ở giai đoạn phân cắt đã cho biết là
nửa phôi có chứa nguyên liệu của liềm xám sẽ phát triển thành phôi bình
thường, còn nửa không chứa liềm xám sẽ phát triển thành một đống lộn xộn các
tế bào nội và ngoại bì. Bằng phương pháp đánh dấu và theo dõi người ta biết
rằng liềm xám sẽ là nguyên liệu của môi lưng của phôi vị. Đó là khu vực có hoạt
tính cao, đi vào trong phôi với tốc độ nhanh nhất, tạo nóc ruột nguyên thủy và
sau sẽ cho nguyên liệu của tấm trước dây sống và một phần trung bì trục. Để xác
minh vai trò của liềm xám, hay của môi lưng của phôi vị Spemann cắt một
miếng môi lưng và cấy vào phía bụng của một phôi khác (xem h46). Để có thể
theo dõi số phận của mầm cấy, ông đã dùng miếng môi lưng của phôi cá cóc
mào (Triturus cristatus) hoàn toàn không có sắc tố, cấy vào phôi của cá cóc
thường (Triturus taeniatus) với các tế bào chứa đầy sắc tố đen. Kết quả miếng
nguyên liệu liềm xám đã có hành vi như trong phát triển bình thường, có nghĩa
là nó cũng lộn vào trong, sẽ tạo tấm trước dây sống, dây sống và một phần thể
tiết, và kết quả là hình thành nên một phôi nguyên vẹn dính với phôi chủ, giống
như trường hợp đôi sinh đôi Xiêm ở người. Phôi phụ cũng có đủ các cơ quan,
tuy nhiên hệ thần kinh, ruột và nhiều bộ phận khác hình thành nên từ mô chủ.
Như vậy môi lưng đã gây nên chuyển động tạo phôi vị, đã là yếu tố tổ chức nên
toàn bộ phôi, do đó Spemann gọi môi lưng, hoặc nguyên liệu trung bì-dây sống
là tổ chức tố (organizer).
Tác động lớn nhất của tổ chức tố là gây một ảnh hưởng lên ngoại bì nằm
sát bên trên nó, làm cho phần ngoại bì này phát triển thành hệ thần kinh và cũng
từ đó mà hình thành nên sơ đồ cấu trúc trục của phôi. ảnh hưởng đó gọi là sự
cảm ứng phôi. ảnh hưởng gây tạo tấm thần kinh là cảm ứng phôi sơ cấp vì đây là
ảnh hưởng đầu tiên trong phôi. ở các giai đoạn muộn hơn ta cũng thấy có ảnh
hưởng cảm ứng trong phát triển các cơ quan khác, đây là các cảm ứng thứ cấp.
Sau khi Spemann phát minh ra cảm ứng phôi, các nhà nghiên cứu bắt đầu
đi tìm cơ chế của hiện tượng này. Đầu tiên người ta nghĩ rằng gây cảm ứng chỉ
là đặc tính đơn nhất của tổ chức tố và rằng các cơ cấu khác khó mà có được tính
chất đó. Tuy nhiên, một vài năm sau đó người ta phát hiện rằng tổ chức tố đã bị
giết chết (luộc chín hoặc ngâm trong rượu) cũng gây tạo được các cấu trúc thần
kinh. Như vậy tính chất của tổ chức tố có lẽ do các chất hóa học chứa trong đó
quyết định. Phát hiện này lại kích thích hàng loạt các nghiên cứu về các chất hóa
học gây cảm ứng. Việc phát hiện hàng loạt mô, hàng loạt chất hóa học có thể
gây cảm ứng đưa tới ý nghĩ về tính đặc140hiệu tương đối của chất cảm ứng.
Tính đặc hiệu có lẽ cần phải tìm cả ở khả năng tiếp nhận cảm ứng của ngoại
141
bì.
Nghiên cứu khả năng gây cảm ứng của miếng môi lưng khi cấy vào dưới
ngoại bì của phôi thuộc các giai đoạn khác nhau cũng cho những kết quả bất
ngờ. Tỷ lệ gây cảm ứng để tạo phôi phụ lớn nhất ở giai đoạn phôi vị sớm, mức
độ cảm ứng, sự hoàn thiện của phôi phụ ở đây cũng cao nhất. Tuy nhiên bắt đầu
từ giai đoạn phôi vị giữa, tỷ lệ gây cảm ứng bắt đầu giảm, và khi bắt đầu tạo
phôi thầm kinh thì khả năng tiếp nhận tác động của cảm ứng bị nhanh chóng tiêu
biến. Như vậy mô chịu cảm ứng phải ở một trạng thái sẵn sàng nào đấy để ảnh
hưởng của tổ chức tố có thể có hiệu lực. Trạng thái đó gọi là thế năng
(competency) của mô. ở giai đoạn sớm mô có thể là đa tiềm năng (polypotent),
nó có thể có vài tiềm năng. Thí dụ như
141
142
ngoại bì phôi vị sớm có thể chịu ảnh hưởng của cảm ứng để biến thành mô thần
kinh, và nếu không bị ảnh hưởng của tổ chức tố nó sẽ biến thành biểu bì. Trong
phát triển xảy ra sự hạn chế thế năng cả về không gian và thời gian. Thí dụ, thế
năng tạo thần kinh ở giai đoạn sớm có ở toàn bộ ngoại bì. Thế năng đó dần dần
khu trú về phía lưng phôi và dần dần biến mất khi kết thúc tạo phôi vị. ở giai
đoạn sớm, có thể dùng tổ chức tố để xác định một trong các thế năng đó, hoặc có
thể dùng tổ chức tố để thay đổi hướng quyết định, khi ở giai đoạn đầu sự quyết
định còn lỏng lẻo. Càng giai đoạn muộn hơn hướng quyết định càng được xác
định chắc chắn hơn và rồi không đảo ngược được. Như trên đã nói, ở phôi lưỡng
thê, từ giai đoạn phôi thần kinh, mọi mầm đã được quyết định chắc chắn, lúc này
nếu bị mất một mầm nào đó phôi không có khả năng tái sinh, vì các mầm khác
không thể được điều chỉnh, được đổi hướng để thay thế cho mầm đã mất.
2.5. Những thí nghiệm về phát triển chi
Các đôi chi ở động vật có xương sống phát triển từ các tế bào trung mô, di
cư từ lá thành của trung bì, trong mối liên hệ chặt chẽ với ngoại bì, ở lưỡng thê,
khi mới được đặt mầm, các chi có dạng mấu lồi nhỏ - các chồi chi. ở chim các
chi được đặt mầm như hai gờ dọc hai bên sườn phôi. Phần thân của gờ sẽ thoái
hóa và để lại các chồi chi trước ở phần đầu các các chi sau ở phần sau của gờ.
Mầm chi được quyết định về đại thể rất sớm từ khi còn chưa thấy mấu lồi và tồn
tại như các vùng chi (trường phôi chi). ở giai đoạn này có thể cắt vùng chi (cả
trung và ngoại bì) và cấy vào bên phôi. Mầm chi sẽ tự biệt hóa thành một chi
nguyên vẹn, có thể lôi kéo các dây thần kinh tới và hoạt động bình thường.
Ở giai đoạn sớm, vùng chi khá rộng, có thể cắt đi vùng chi theo một hình
tròn đường kính choán tới 3 thể tiết, vết cắt sẽ liền lại và từ đó vẫn mọc được
một chi nguyên vẹn. Đồng thời miếng cắt tròn đó có thể chia ra làm 4 và cấy vào
4 chỗ khác nhau ở bên sườn phôi và ta có thể có được 4 chi riêng rẽ.
Ở động vật có xương sống, các chi bao giờ cũng có cấu trúc không gian
xác định. ở lưỡng thê, trục trước-sau trùng với trục đầu đuôi. Chi trước mọc theo
hướng trước-sau, trục lưng-bụng xét theo vị trí ngón cái ở phía bụng. Trong quá
trình phát triển trục trước-sau được quyết định trước, trục lưng-bụng được quyết
định muộn hơn.
Ở giai đoạn sớm, nếu ta quay mầm chi một góc 180o, chi sẽ mọc về phía
trước theo đúng hướng xác định của mầm, tuy nhiên ngón cái vẫn ở phía bụng.
Nếu thí nghiệm ở giai đoạn muộn hơn thì toàn bộ chi sẽ như bị quay đi đúng
một góc 180o với trục trước- sau và lưng-bụng đều bị lộn ngược, tức là chi
hướng về phía trước với ngón cái quay về phía lưng.
Ở chim, trong mầm chi người ta phát hiện được một khu vực gọi là vùng
phân cực, từ đó tiết ra một chất sinh hình (morphogen) và hình như các tế bào
trong mầm được thông báo về vị trí của chúng (thông tin vị trí) để hình thành
nên cơ cấu đặc trưng. Thông tin vị trí tồn tại dưới dạng nồng độ các chất, theo
khuynh độ giảm dần từ vùng phân cực. Các thí nghiệm sau đây chứng tỏ điều
đó.
Vùng phân cực (có thể gọi là điểm phân cực vì nó chỉ gồm khoảng 100 tế
bào) là một nhóm tế bào trung mô ở mép sau của đĩa chi. Chính nó xác
định thứ tự các ngón của chi. Chi 5142ngón gồm có ngón cái (đánh số 1),
143
ngón trỏ (2), ngón giữa (3), ngón đeo nhẫn (4) và ngón út (5). Chim chỉ có 3
ngón 2, 3, 4. So với điểm phân cực thì gần nhất là ngón 4, rồi 3 và xa nhất là
ngón 2. Thứ tự đó xác định cho cả hai phía trước-sau của điểm phân cực. Nếu
cắt vùng phân cực và đem cấy lên mép trước của đĩa chi thì ta sẽ được một chi
có hai bộ ngón đối xứng gương với nhau qua mặt phẳng đối xứng đi qua chính
giữa đĩa chi (và trực giao với trục trước- sau).
Nếu thay đổi vị trí của miếng cấy (tức điểm phân cực) theo hướng trước-
sau thì sẽ thấy tương tác giữa hai điểm phân cực, điểm ghép và điểm chủ. Nếu
cấy theo kiểu A thì ảnh hưởng sẽ không biểu hiện được trước điểm phân cực,
nhưng sau điểm phân cực sẽ gây tạo ngón theo thứ tự 4-3. Điểm chủ cũng gây
tạo theo hướng 4-3, và cả hai ngón 2 đều không có
143
144
(chắc là không đủ nguyên liệu). Còn nếu cấy vào vị trí chính giữa đĩa chi thì nó
gây ảnh hưởng về phía trước theo thứ tự 4-3-2, về phía sau 4-3, điểm chủ cũng
gây tạo 4-3. Giữa chủ và ghép vẫn có đối xứng gương.
Một điều lí thú nữa là nồng độ morphogen càng lớn thì khả năng tạo ngón
gần sẽ càng nhiều hơn, và ngược lại, nồng độ càng nhỏ thì khả năng càng thiên
về tạo ngón xa. Nồng độ morphogen phụ thuộc vào khối lượng mô ghép, khối
lượng càng nhỏ thì hàm lượng chất trong đó cũng càng nhỏ. Nếu lấy từ điểm
phân cực để ghép chỉ 30 tế bào thì chỉ có hai ngón được xác định, 80 tế bào thì
có hai ngón 2 và 3, và chỉ khi miếng mô ghép có trên 100 tế bào thi mới tạo
được ba ngón.
2.6. Lý thuyết về các tế bào gốc trong phát triển
Trong cơ thể con vật trưởng thành, có một số loại tế bào hoàn toàn không
phân chia, thí dụ như tế bào thần kinh. Một số khác thì lại luôn luôn phải tạo
mới để bù cho số tế bào luôn chết đi trong quá trình hoạt động, thí dụ như các tế
bào biểu mô bì hoặc biểu mô ruột, các tế bào máu, v.v... Sự duy trì ổn định số
lượng các tế bào này là do sự phân chia các tế bào ít biệt hóa luôn có trong mô.
Nếu biểu diễn quá trình phân hóa các tế bào này dưới dạng một cái cây thì các tế
bào ít biệt hoá này luôn luôn ở phần gốc, từ đó phát ra các cành, các ngọn là các
tế bào đã chuyên hóa. Do vậy các tế bào này được gọi là các tế bào gốc. Thí dụ
như biểu bì, các tế bào gốc luôn nằm ở lớp đáy, sát với màng đáy. Một tế bào
gốc phân chia vài lần và tạo một nhóm 8-10 tế bào. Một trong tế bào này sẽ vẫn
ở lại lớp đáy và vẫn là tế bào gốc, các tế bào khác chuyển dần lên phía trên, tích
lũy keratin và hóa sừng.
Biểu mô ruột cũng luôn được đổi mới, các tế bào luôn được thay thế bởi
sự phân chia tế bào gốc ở đáy tuyến Libercune (Lieberkuhn).
Trong tủy xương cũng luôn có các tế bào gốc của các thành phần hữu hình
của máu. Rất khó phân biệt tế bào gốc với các giai đoạn trung gian trong quá
trình biệt hóa tế bào máu. Nhờ có phương pháp gây sai lệch nhiễm sắc thể bằng
tia rơn-ghen người ta có thể đánh dấu được các tế bào. Các sai lệch này nhiều
khi không ảnh hưởng gì tới biệt hoá tế bào máu. Nếu tế bào có dấu là tế bào gốc
thì tất cả con cháu của chúng đều mang dấu đó. Nhờ dấu này người ta có thể
phát hiện được tế bào gốc chung cho tất cả các loại tế bào máu, các loại hồng
cầu và bạch cầu; các tế bào nửa gốc - là thủy tổ của bạch cầu hạt, hoặc bạch cầu
limphô hoặc hồng cầu.
Nếu chiếu xạ toàn thân cho chuột với liều 1000 rơnghen thì tất cả các tế
bào máu sẽ chết hết. Có thể cứu sống con chuột này nếu đưa vào cơ thể nó các tế
bào tủy xương lấy từ chuột bình thường (và có dấu di truyền để tiện theo dõi).
Các tế bào này sẽ tạo các tập đoàn tế bào tạo máu ở trong lách. Một tập đoàn là
con cháu của tế bào gốc. Một số tập đoàn biệt hoá theo dòng hồng cầu, một số
theo dòng bạch cầu, một số cho cả hai dòng. Khá lí thú là có thể lấy các tế bào
của dòng hồng cầu đem đưa vào chuột chiếu xạ, trong lách sẽ xuất hiện cả tập
đoàn hồng cầu và cả tập đoàn bạch cầu. Người ta tính được rằng một tế bào nửa
gốc sẽ qua khoảng 15 lần phân chia để tạo hồng cầu. Như vậy, một tế bào gốc
hồng cầu sẽ cho khoảng
30.000 hồng cầu. Tuy nhiên, khó mà144có thể phán đoán được là có bao
145
nhiêu tế bào gốc chung cho tất cả các thành phần hữu hình của máu.
Ngày nay, người ta tìm ra một số phương pháp để dự đoán khá chính xác
số tế bào gốc đầu tiên, khi mà chúng được quyết định theo một hướng xác định,
thí dụ như để hình thành tế bào máu.
*Xác định số tế bào gốc hồng cầu nhờ nhiễm sắc thể X
Ta biết là trong cơ thể phụ nữ chỉ có một nhiễm sắc thể X là hoạt động,
còn một mất hoạt tính từ giai đoạn sớm. Trong hai nhiễm sắc thể, cái nào hoạt
động, đó là vấn đề ngẫu nhiên.
145
146
Ở vùng Địa Trung Hải có một bệnh di truyền, đó là bệnh dị ứng với đậu
răng ngựa, có liên quan tới đột biến một gen nằm trên nhiễm sắc thể X, đó là gen
glucoza-6-photphat dehidrogenaza (G-6-PDH). Cơ thể mang gen đột biến G- cho
toàn bộ hồng cầu có enzyme dị thường. Người nữ G+/G- có hồng cầu chứa
enzyme bình thường và hồng cầu chứa enzyme dị thường. Theo kiểu gen của bố
và của các con người ta chọn được 950 phụ nữ chắc chắn có kiểu gen G+/G-. Tuy
nhiên, trong số này có 4 phụ nữ mà hồng cầu chỉ chứa enzyme dị thường.
Trường hợp này người ta suy luận như sau:
Nếu khi được quyết định là tế bào gốc hồng cầu chỉ có một tế bào, thì xác
suất để cho cơ thể có hồng cầu bình thường (G+) hoặc dị thường (G-) là 1/2, và
trong trường hợp trên sẽ có khoảng 500 phụ nữ có hồng cầu mang enzyme bình
thường và 500 dị thường. Nếu tiếp tục suy luận theo cách trên (xem bảng) thì ta
có thể giả định là khi được quyết định là tế bào gốc hồng cầu tổng số có 8 tế bào
gốc và đó là thủy tổ của hàng tỷ tế bào hồng cầu trong cơ thể chúng ta.
Suy luận về số lượng tế bào gốc hồng cầu
147
148
đều rơi vào một mầm nào đó phụ thuộc vào số lượng tế bào gốc tạo nên mầm
đó. Trong trường hợp ghép hai phôi A và B, nếu mầm phát triển từ một tế bào
gốc thì cơ quan phát triển từ mầm đó sẽ có xác suất 0,5 là gồm một loại tế bào
hoặc A hoặc B. Nếu mầm phát triển từ hai tế bào gốc thì xác suất để cơ quan
không khảm (AA hoặc BB) là 0,25. Nếu mầm phát triển từ 4 tế bào gốc thì sẽ có
1/24 :: 1/16 số phôi khảm mà mầm cơ quan đó không khảm.
Bằng cách như vậy, người ta tìm thấy rằng trong mỗi thể tiết phát triển từ
hai dòng tế bào (2 tế bào gốc). Tham gia vào hình thành gan có 20 dòng tế bào,
võng mạc 20 dòng, các ống thận 4-5 dòng v.v...
Nếu tổng hợp tất cả các cơ quan của cơ thể lại ta thấy rằng các dòng tế
bào gốc được quyết định khi tổng số tế bào của phôi cũng không phải lớn lắm.
3. Sự bền vững của trạng thái biệt hóa. Di truyền siêu gen
3.1. Tính ổn định của trạng thái biệt hóa
Như ta biết, trong cơ thể có hàng trăm loại tế bào khác nhau. Lẽ tất nhiên
chúng đều phát triển từ một tế bào hợp tử, và qua một quá trình phát triển phức
tạp để biệt hóa nên các tế bào như vậy. So với cả cuộc đời, giai đoạn mà các tế
bào trở nên biệt hóa chỉ chiếm một khoảng thời gian ngắn, và khi đã biệt hóa thì
trạng thái đã biệt hóa được duy trì lâu hơn nhiều. Thí dụ như mô thần kinh ở
động vật có xương sống xuất hiện ở giai đoạn phát triển phôi sớm và các tế bào
thần kinh chuyên hóa giữ nguyên gần như không đổi trong suốt cuộc đời.
Nhiều loại tế bào khác của cơ thể trưởng thành cũng vậy. Gan biệt hóa
như một cơ quan cũng ngay từ giai đoạn rất sớm. Cho tới giai đoạn trưởng thành
gan còn tăng trưởng lên hàng nghìn lần. Có nghĩa là các tế bào gan phải qua 10-
15 lần phân chia mà nó vẫn luôn luôn là các tế bào gan. ở cơ thể trưởng thành,
các tế bào gan ít phân chia, tuy nhiên nếu cắt đi 1/2 hoặc 2/3 gan, hoạt tính phân
chia ngay lập tức tăng lên và chỉ trong vài ngày là gan lại đạt kích thước ban
đầu. Có thể tiến hành cắt vài lần như vậy và sau mỗi lần, các tế bào gan lại phân
chia để bù cho phần đã mất và khôi phục lại kích thước ban đầu. Như vậy dù qua
nhiều lần phân chia, các tế bào gan vẫn giữ được các nét đặc trưng cho tế bào
gan, như về hình thái tế bào, về hoạt tính enzymee, về sự tổng hợp các protein
huyết tương, v.v..., và cũng chính nhờ các nét đặc trưng đó làm cho nó khác với
các tế bào khác.
Khi so sánh các tế bào đã biệt hóa khác nhau của cơ thể, người ta thấy mỗi
loại tế bào đều có các sản phẩm protein (sản phẩm hoạt động gen) đặc trưng.
Như tụy đặc trưng bởi các enzymee protease, hồng cầu đặc trưng bởi
hemoglobin, sợi bào bởi collagen, v.v... Rõ ràng rằng ở các tế bào gan có một số
gen luôn hoạt động mà không hoạt động ở tụy hoặc thận. Ngược lại, các gen
hoạt động ở tụy hoặc hồng cầu non không bao giờ bắt đầu hoạt động ở gan. Tóm
lại, mỗi loại tế bào có một trạng thái hoạt động gen đặc trưng, trạng thái hoạt
động gen đó rất ổn định và được truyền từ thế hệ tế bào này sang thế hệ tế bào
khác. Giữa các tế bào gan và tụy (và các tế bào khác) của một cơ thể có lẽ không
có gì khác nhau về thứ tự các nucleotid trong ADN của chúng, và rõ ràng là ở
đây tồn tại một dạng di truyền khác-di truyền siêu gen. Đó là sự truyền theo các
thế hệ tế bào thông tin về sự hoạt động gen, thông tin về gen nào hoạt động
và gen nào không hoạt động trong một148loại tế bào biệt hóa.
149
Nếu như sự tồn tại của di truyền siêu gen không làm ta nghi ngờ gì thì về
bản chất của nó, về cơ sở vật chất của nó còn nhiều điều chưa rõ.
Vấn đề ở chỗ là phải giải thích như thế nào về sự bảo tồn hoạt tính của các
gen xác định trong các tế bào phân chia. Trong chu kỳ này nhiễm sắc thể trải qua
2 quá trình biến đổi cấu trúc, tái bản và tạo nhiễm sắc thể phân chia. Khi tạo
nhiễm sắc thể xảy ra sự xoắn và xếp chặt các sợi nhiễm sắc, quá trình sao chép
và phiên mã ngừng lại, cần phải giải thích tại sao sau khi hoàn thành Mitose, khi
nhiễm sắc thể mở xoắn, hoạt tính của chính các gen đó lại lặp lại.
149
150
Không kém phức tạp khi giải thích sự duy trì tính bền vững của biệt hóa
trong quá trình tái bản. Khi nhân đôi ADN xuất hiện các sợi mới, các sợi lại
cùng với protein histon và phi histon xoắn lại vài cấp để tạo nên các sợi nhiễm
sắc. Sự chuyển trạng thái hoạt động (hoặc không hoạt động) của một gen thành
ra của 2 gen, hay nói một cách khác, sự nhân đôi, sinh sản, tái bản không những
ADN mà cả trạng thái hoạt động chọn lọc của nó trong các đoạn khác nhau diễn
ra như thế nào. Đó là những vấn đề đang được nghiên cứu để giải quyết của di
truyền siêu gen. Có hai nhóm các giả thuyết về di truyền siêu gen, đó là nhóm
các giả thuyết nhấn mạnh vai trò của các chất chuyển hóa và nhóm nhấn mạnh
vai trò của các biến đổi cấu trúc ADN.
3.2. Giả thuyết chuyển hóa
Nhóm các giả thuyết chuyển hóa cho rằng bản chất sự ổn định của biệt
hóa là do tồn tại các chất chuyển hóa hoạt hóa một nhóm gen, chất đó có thể là
ARN hoặc protein. Theo giả thuyết “chuyển hóa”, trong tế bào xuất hiện một
vòng kín, mARN phiên từ gen đặc biệt, mARN dịch ra protein, protein này hoạt
hóa gen của chính nó và tất cả các gen đặc trưng cho kiểu biệt hóa này.
Sơ đồ này dễ dàng giải thích được tất cả các khó khăn về sự duy trì hoạt
tính các gen của kiểu biệt hóa xác định trong chu kỳ Mitose. Trong thời kỳ tái
bản ADN và trong nguyên phân (Mitose), chất được tổng hợp trước đó, “chất
chuyển hóa”, nằm ở tế bào chất, và sau khi nhân đôi nhiễm sắc thể hoặc sau khi
tạo các nhân con, lại tiếp tục hoạt hóa chính các gen đặc trưng cho kiểu biệt hóa
đó. Hệ thống như vậy, khi đã xuất hiện thì tự duy trì và không cần có các tác
nhân đã kích thích tạo ra nó. Rõ ràng là số lượng các gen mà xác định các chất
hoạt hóa đó cần phải bằng số kiểu các tế bào biệt hóa có thể có trong cơ thể.
Giả thuyết chuyển hóa khá logic và giải thích được đa số các trường hợp
biệt hóa. Tuy nhiên, có một số trường hợp có lẽ không phù hợp với giả thuyết
này. Thí dụ như trường hợp Lyon hóa nhiễm sắc thể X. Như nữ bác học người
Anh M.Lyon đã phát hiện, ở động vật có vú giới cái có hai nhiễm sắc thể X, giới
đực chỉ có một. Nhiễm sắc thể X mang nhiều gen quan trọng và đương nhiên
phải có một cơ chế nào đó làm cân bằng lượng sản phẩm gen ở tế bào đực và tế
bào cái. ở phôi sớm, giai đoạn 300-400 tế bào, diễn ra sự mất hoạt tính của một
trong hai nhiễm sắc thể X. Nhiễm sắc thể mất hoạt tính tạo nên trong nhân một
cục nhiễm sắc chất rất đặc hiệu, đó chính là thể Barr mà đã sử dụng để xác định
giới tính đực cái. Nhiễm sắc thể X mất hoạt tính trở nên có cấu trúc đặc hơn, bắt
màu đậm hơn, tức là bị dị sắc hóa. Sự dị sắc hóa 1 trong 2 nhiễm sắc thể X xảy
ra trong mỗi tế bào một cách ngẫu nhiên, nhưng sau đó trong tất cả các tế bào là
hậu thế của tế bào đó, dị sắc vẫn chính là nhiễm sắc thể X đó. Trong dòng thuần,
hai nhiễm sắc thể là hoàn toàn như nhau, và không thể tưởng tượng được là có
một chất nào đó có thể phân biệt nhiễm sắc thể X này với nhiễm sắc thể X kia.
Do đó, sự Lyon hóa, thậm chí ngay ở trung kỳ Mitose cũng tự nhớ là mình Lyon
hóa và lặp lại trạng thái đó sau Mitose. Trong trường hợp này phải giả thiết là
Lyon hóa làm thay đổi cấu trúc nhiễm sắc thể và sự thay đổi cấu trúc đó duy trì
qua tái bản và Mitose.
3.3. Các dạng của giả thuyết cấu trúc
Các dạng của giả thuyết cấu trúc150giả định những biến đổi về cấu trúc
151
của vật di truyền và những biến đổi này duy trì được qua tái bản và có thể truyền
qua một loạt thế hệ tế bào.
Trước tiên phải kể tới những biến đổi về cấu trúc bậc một. Có một số dẫn
liệu về tồn tại các enzyme có thể biến một nucleotid này sang nucleotid khác mà
không làm thay đổi vị trí của nó trong ADN. Những biến đổi kiểu này thường
gây nên các đột biến, nhưng cũng có thể không gây hậu quả gì nghiêm trọng mà
chỉ ảnh hưởng lên hoạt tính chung của gen hoặc một nhóm gen.
Một cách biến đổi ADN nữa là qua metyl hóa. Trong tế bào có các
enzyme metylase, đính gốc metyl vào một số citozin. Quan trọng là tính đặc
hiệu và tính có thể tái bản của trạng
151
152
thái metyl hóa, người ta thấy có một tương quan rõ rệt giữa mức độ metyl hóa và
hoạt tính gen. Các gen không hoạt động có độ metyl hóa cao hơn.
Hơn nữa các nucleotid đã metyl hóa có thể tái bản được trạng thái metyl
hóa của mình. Tồn tại các metylase metyl hóa citozin ở mạch kia khi mạch này
đã metyl hóa. Sự tồn tại các enzyme này đảm bảo cho sự tái bản các citozin đã
metyl hóa. Trên thực tế cũng thấy sự duy trì trạng thái metyl hóa trong nhiều thế
hệ tế bào.
Về cơ chế biệt hóa, nếu như sự thay đổi cấu trúc bậc một của ADN bằng
cách thay thế các nucleotid và biến đổi các nucleotid còn là vấn đề tranh cãi thì
những thay đổi qua chuyển dịch các đoạn lớn ADN và mất đoạn ADN đã được
chứng minh. Trong thời gian gần đây, người ta phát hiện rằng trong phát triển
ruồi giấm có lẽ xảy ra sự di chuyển ngẫu nhiên các đoạn ADN vào các khu vực
khác của nhiễm sắc thể làm ảnh hưởng tới hoạt động của các gen. Đặc biệt là
những biến đổi của các gen globin miễn dịch, ở đây người ta xác lập rằng trong
biệt hóa tế bào limpho xảy ra sự kết hợp một cách có quy luật một số vùng
ADN. Trong một phần riêng sau đây ta sẽ quay lại xem kỹ hơn về vấn đề này.
Trong số các cơ chế cấu trúc của di truyền siêu gen có thể nói về sự tái
bản chưa hết hoặc tái bản quá độ ADN. Người ta biết rằng khi tạo nhiễm sắc thể
đa sợi ở côn trùng, một số đoạn tái bản ít lần hơn các đoạn khác. Trong tạo noãn,
các gen riboxom trong noãn bào lại được tái bản quá độ, quá nhiều lần, thậm chí
tách hẳn khỏi nhiễm sắc thể và ra hoạt động trong dịch nhân.
Trong cơ chế cấu trúc của di truyền siêu gen người ta cũng giả định những
thay đổi về độ xoắn của các sợi ADN, về các cấu trúc khác nhau của nucleoxom,
về sự sắp xếp khác nhau của ADN trong sợi nhiễm sắc và trong nhiễm sắc thể.
Như vậy, hiện nay vẫn tồn tại hai nhóm giả thuyết về di truyền siêu gen và
chưa có một giả thuyết nào được chứng minh chắc chắn. Trường hợp biến đổi
các gen của các phân tử kháng thể, các globin miễn dịch, là rất rõ rệt, song đó
mới chỉ là trường hợp rõ rệt độc nhất, và các ý định tìm sự kiện tương tự với các
gen khác chưa đi tới kết quả. Dưới đây ta sẽ xem chi tiết hơn về các gen kháng
thể.
3.4. Về các gen kháng thể
* Về hệ miễn dịch
Có hai loại miễn dịch, miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bào. ở đây chủ
yếu nói về miễn dịch thể dịch, tức là sự sinh ra kháng thể trong huyết thanh để
chống lại các kháng nguyên lạ xâm nhập vào cơ thể.
Nếu có một kháng nguyên lạ (một protein hoặc một đại phân từ lạ) xâm
nhập vào cơ thể, thì qua 1-2 tuần trong máu của cơ thể sẽ xuất hiện các kháng
thể - các protein đặc biệt, thuộc nhóm globulin miễn dịch (IG)- liên kết đặc hiệu
chỉ với kháng nguyên gây tạo ra nó. Mỗi phân tử kháng thể có hai trung tâm
hoạt động giống nhau, cho phép nó liên kết với hai phân tử kháng nguyên, gây
đông kết và vô hiệu hóa tính độc hại của kháng nguyên.
Vấn đề là phải giải thích được bằng cách nào mà kháng nguyên lại gây tạo
kháng thể đặc hiệu với nó. Sự phát hiện ra cơ chế tổng hợp protein và sự đa dạng
vô hạn các kháng nguyên đã làm sụp152đổ mọi lý thuyết trước đó giải thích
153
tính đặc hiệu của kháng thể. Cố gắng của nhiều nhà khoa học từ những năm 60
lại đây đã cho chúng ta những hiểu biết khá hoàn chỉnh về hiện tượng miễn dịch.
Trước tiên phải nói tới lý thuyết dòng tế bào miễn dịch của Burnett. Theo
lý thuyết này mỗi kháng thể được tổng hợp bởi một dòng tế bào limphô. Sau đó
là các công trình của Tonegawa chứng minh sự biệt hóa thành dòng các tế bào
limpho đó là do sự biến đổi các gen của các phân tử globulin miễn dịch.
Lý thuyết Burnett so sánh kháng nguyên và kháng thể như là khóa và chìa
khóa. Tính đặc hiệu của kháng nguyên thường được quyết định chỉ bởi một đoạn
ngắn trong phân tử của
153
154
nó, đoạn đó được gọi là quyết định tố (determinant). Đoạn quyết định tố lại ứng
với một trung tâm hoạt động, thường chỉ gồm 5-7 axit amin, của kháng thể. Lý
thuyết miên dịch của Burnett cho rằng trong cơ thể có sẵn một chùm chìa khóa
(khoảng 107 chiếc) và chắc là luôn luôn có thể chọn được một chìa thích hợp
cho bất kỳ một kháng nguyên nào.
154
60
5. Bào tương
Tế bào chất là khối nguyên sinh chất (protoplasma) nằm trong màng tế
bào và bao quanh lấy nhân.
Tế bào chất của một số tế bào có sự phân hóa thành 2 lớp:
- Lớp ngoại chất (exoplasma) ở ngoại vi, mỏng hơn và có độ nhớt cao hơn.
- Lớp nội chất ( endoplasma ) ở bên trong và bao quanh lấy nhân, chứa
các bào quan như : mạng lưới nội sinh chất, phức hệ Golgi, ribosome, ty thể,
lạp thể, thể lido...
Nếu loại bỏ các bào quan thì còn lại khối tế bào chất không có cấu trúc-
gọi là chất nền hay thể trong suốt (cytosol).
Thể trong suốt chiếm gần một nửa khối lượng của tế bào. Thể trong suốt
có nhiều nước, có thể đến 85%. Sau nước là protein, thành phần chủ yếu. Thể
trong suốt chứa đựng một số lượng protein sợi xếp lại thành bộ khung của tế
bào. Trong thể trong suốt có hàng nghìn enzymee và chứa đầy ribosome để tổng
hợp protein. Gần một nửa enzymee được tổng hợp nên trên các ribosome là các
protein của thể trong suốt. Do đó nên xem thể trong suốt là một khối gel có tổ
chức cao hơn là một dung dịch chứa enzymee.
Ngoài protein ra trong thể trong suốt còn có các loại ARN như mARN,
tARN chiếm 10% ARN của tế bào. Trong thể trong suốt còn có các chất như :
lipid, glucid, acid amin, nucleoside, nucleotid và các ion. Thỉnh thoảng có các
hạt dầu và hạt glycogen với số lượng thay đổi và có thể mang từ vùng này qua
vùng khác tùy hoạt tính của tế bào.
Thể trong suốt giữ nhiều chức năng quan trọng như :
- Là nơi thực hiện các phản ứng trao đổi chất của tế bào, là nơi gặp nhau
của chuỗi phản ứng trao đổi chất. Sự biến đổi trạng thái vật lý của thể
trong suốt có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào.
- Nơi thực hiện một số quá trình điều hòa hoạt động của các chất.
- Nơi chứa các vật liệu dùng cho các phản ứng tổng hợp các đại phân tử
sinh học như các glucid, lipid, glycogen.
Mọi hoạt động sống của tế bào đều xảy ra trong tế bào chất và do các bào
quan riêng biệt phụ trách và được phối hợp điều hòa một cách nhịp nhàng.
Bào tương còn gọi là tế bào chất là tất cả phần thuộc tế bào được giới hạn
bởi màng nhân ở bên trong và bởi màng tế bào phía bên ngoài. Bào tương gồm
dịch bào tương, các bào quan và các thể vùi.
6. Các bào quan.
Các bào quan là những cơ quan nhỏ với nhiều chức năng chuyên biệt
khác nhau phối hợp đồng bộ để đảm bảo cho sự sống và di truyền của tế bào.
6.1. Ribosom :
Một bào quan không giới hạn bởi màng sinh chất nội bào, là thể kết hợp
của rARN và protein có rải rác ở khắp bào tương, tự do hoặc bám vào lưới nội
sinh chất có hạt và vào mặt ngoài của màng nhân ngoài. Là nơi xảy ra sự tổng
hợp protein tế bào.
60
6.1.1. Cấu trúc của ribosom : ribosom gồm có hai phân đơn vị liên kết với nhau
61
Mỗi phân đơn vị có độ lắng khác nhau. (Độ lắng tức là tốc độ lắng khi
quay ly tâm trong những điều kiện tiêu chuẩn). Đơn vị lắng là đơn vị S ( chữ
viết tắt của tên tác giả Svedberg) . Ở Prokaryota toàn bộ ribosom có độ lắng là
70S (phân đơn vị nhỏ có độ lắng là 50S).
6.1.2. Ở Eukaryota con số đó lần lượt là : chung 80S, nhỏ 40S, lớn 60S
61
62
Phân đơn vị nhỏ hình thuôn dài và cong nằm úp như cái vung không kín
lên trên phân đơn vị lớn hình cối nhỏ có 3 cái mấu thò lên ôm lấy phân đơn vị
nhỏ.
- Thành phần hóa học: mỗi phân đơn vị đều làm bằng protein và rARN.
rARN cũng được phân biệt bằng đơn vị lắng S
Protein có nhiều và đa dạng được đặt tên là L và S kèm theo chỉ số.
+ Ở Prokaryota : phân đơn vị nhỏ có một rARN 16S (1540 bazơ) và 21
phân tử protein có tên từ S1 đến S21.
Phân đơn vị lớn có 2 rARN, 5S (120 bazơ), 23S (2900 bazơ) và 31 phân
tử protein có tên từ L1 đến L31
+ Ở Eukaryota : phân đơn vị nhỏ có 1 rARN 18S (1900 bazơ) và 33 phân
tử protein có tên từ S1 đến S33
Phân đơn vị lớn có 2 rARN, 5S (120 bazơ) và 28S liên kết với 5,8S (tức
4.800 bazơ +
160 bazơ) và 50 phân tử protein có tên
từ L1 đến L50
Vài bào quan như ti thể và lạp thể do
có ADN riêng nên cũng có ribosom
riêng. Chúng có khác là nhỏ hơn.
6.1.3 Chức năng của ribosom
Ribosom là nơi tổ chức việc tổng
hợp protein tế bào. tính phức tạp của
thành phần cấu trúc với hoạt động chức
năng cũng phức
tạp tuy đã được khám phá ra nhiều điều nhưng vẫn còn nhiều bí ẩn.
rARN là axit nucleic nhưng không phải là chỉ hoạt động đơn thuần có liên
quan đến các mã di truyền mà còn liên kết phối hợp với các protein để tiếp đón
(mARN) tuyển chọn ( phức hợp tARN-axit amin) một cách chính xác, tổ chức
tổng hợp (chuyển và nối các axit amin theo mệnh lệnh thông tin) và giao nhận
(khi chuỗi peptid đã hoàn thành). 62
63
Sự chọn cho được phức hợp tARN- axit amin chính xác để nối dài chuỗi
peptid là công việc chiếm nhiều thời gian nhất của sự tổng hợp protein.
Người ta phát hiện thấy ở Eukaryota hầu như tất cả các protein trên bề
mặt của ribosom cũng như các vòng sợi rARN lộ ra trên bề mặt của ribosom đều
gắn với các nhân tố khác(enzyn, các nucleotid nhất định trên mARN, trên tARN
)để tổ chức và quyết định sự khởi đầu, kéo dài và kết thúc sự tổng hợp protein.
63
64
Bản thân mARN đã có tín hiệu khởi đầu riêng của nó nhưng sự khởi đầu
chỉ thực hiện khi có sự phối hợp của cả một phức hợp protein, rARN trên
ribosom. Không có phức hợp protein nói trên thì cả một hệ thống mARN, Met -
tARN Met, GTP tại codon AUG khởi đầu của mARN và cả phân đơn vị nhỏ của
ribosom không thêí hình thành. Phức hợp protein ribosom và rARN và cả
mARN luôn thay đổi hình dạng của cấu trúc nhờ năng lượng thủy phân GTP để
chuyển dịch mARN đi vào và đi qua ribosom. (xem tổng hợp protein ở phần
sau)
Về vai trò của rARN với tư cách nhận diện và liên kết theo cơ chế bổ
sung các cặp bazơ, người ta thấy có một chuỗi ngắn nucleotid trên rARN 5S,
trước khi bước vào tổng hợp protein. Chuỗi ngắn ấy gắn với một chuỗi tương
ứng trên mARN, chuỗi này là một mã không đặc hiệu nằm trước mã đầu tiên
của mỗi mARN (có tác giả cho rằng chuỗi ngắn mARN vừa nói thuộc về chuỗi
rARN 16S ở vi khuẩn).
Một chuỗi nucleotid khác thuộc rARN 28S thì gắn với chuỗi tương ứng
(cũng không đặc hiệu) trên tARN thì tARN này mang một axit amin tới
ribosom. Người ta cho rằng bộ bốn T(CG không đặc hiệu của tARN phụ trách
việc này. Chúng ta để ý bộ bốn này có T và ( : ARN về nguyên tắc không có T
và ( thì là một nucleotid lạ. Khi vừa sao mã xong thì bộ bốn ấy là UUTG, liền
sau đó bị biến đổi (gọi là thuần thục hóa), một U được thay bởi một T, còn một
U được thay bởi một uridin giả gọi là pseudouridin viết rắt là (.
tARN tổng hợp xong hay bị biến đổi. Sự biến đổi này hay gặp nhất là ở bộ
bốn UUGG (giữa phân tử ở vòng tròn bên nhánh phải của chữ thập). Chữ U đầu
tiên (uridylat) bị methyl hóa thành T (thymidylat). Chữ U thứ hai sắp xếp lại
thành pseudouridylat ((), trong đó riboza liên kết với 1 cacbon thay vì liên kết
với 1 nitơ. Sự biến đổi này tạo nên T(CG.
6.1.4 Dạng tồn tại của ribosom
Ribosom có thể tồn tại dưới dạng phân đơn vị trong bào tương ở một số
loài sinh vật các phân đơn vị lớn và nhỏ, chỉ hợp lại với nhau khi tổng hợp
protein. Các phân đơn vị được thành lập tại hạch nhân trong nhân tế bào. Chúng
chỉ hợp nhau tại bào tương. Ở Prokaryota vì không có màng nhân nên không có
chi tiết nói trên. Ribosom của ti thể và lạp thể có những đặc tính tương tự như
ribosom của vi khuẩn.
Ở Eukaryota ribosom có hai dạng chính: ribosom tự do trong bào tương
và ribosom bám vào màng lưới nội sinh chất và màng nhân.
+ Loại ribosom tự do: là nơi sản xuất chủ yếu các protein thuộc bộ xương
của tế bào, các protein thêm vào cho ti thể và cho perxysom như catalaza. Các
protein gọi là tự do này đều có một chuỗi ngắn axit amin làm tín hiệu dẫn đường
đưa đến nơi giao nhận.
+ Loại ribosom bám vào lưới nội sinh chất và màng nhân: có điểm khác
căn bản với ribosom tự do ở chỗ chúng chỉ chuyên trách làm nơi tổng hợp các
protein tiết nói chung, cần bảo quản ngay sau khi tổng hợp và được giao nhận
trong các túi vận tải. Mỗi ribosom được gắn bằng phân đơn vị lớn của mình vào
một điểm trên mạng lưới nội sinh chất hoặc màng nhân, điểm này làm bằng
64
protein gọi là ribophorin, kiểu như một receptor trên màng. Khi không có tổng
65
hợp protein thì ribosom vẫn tự do. Chuỗi axit amin đầu tiên chính là tín hiệu dẫn
đường đưa ribosom vào vị trí receptor.
Ribosom tự do và ribosom bám vào lưới giống nhau về thành phần cấu
trúc protein và rARN. Gọi là tự do nhưng sự thực thấy chúng thường bám vào
các sợi của bộ xương của tế bào.
- Polysom: tức là polyribosom là hình ảnh đồng thời nhiều ribosom làm
việc trên cùng một sợi mARN. Mỗi ribosom cho ra chuỗi peptid riêng của mình.
Các chuỗi này đều giống nhau vì làm việc với cùng một mARN.
65
66
Polysom
một phức hợp protein trên màng mà người ta gọi chung là ribophorin. Phức hợp
này còn có liên quan đến việc tiếp nhận protein tiết đưa vào lòng lưới. Lực bám
là lực liên kết ion cộng với lực của chính chuỗi polypeptid mới sinh. Trong
trường hợp không có permeaza thì sợi protein tự luồn qua màng lipid nhờ tín
hiệu dẫn đường.(permeaza là 1 protein xuyên màng có chức năng vận chuyển
qua màng).
67
68
* Về chức năng giải độc : các chất độc, dược liệu hoặc hóa chất có hại,
thuốc trừ sâu hay chất gây ung thư đi vào SER tại đó các enzyme xúc tác các
phản ứng chuyển các chất trên từ không tan trong nước thành tan trong nước để
có thể đào thải qua nước tiểu. Khi chất độc có nhiều SER tăng số lượng, tiêu độc
xong thì phần thừa sẽ giải thể theo con đường tiêu hóa trong tiêu thể.
* Chức năng được gọi là nâng cấp các axit béo có thể thấy qua việc SER
dùng enzyme của mình để nối lại các hạt monoglyxeryl, các mixen axit béo
trước đó đã giáng cấp cho vụn ra để đi qua màng tế bào làm cho chúng trở lại
nguyên hình các đại phân tử.
69
70
Các sản phẩm của SER cũng được phân phối theo yêu cầu dưới dạng chất
tiết. Ngoài ra SER ở tế bào cơ có một chức năng đặc biệt liên quan tới sự co
duỗi cơ. Màng SER của cơ có protein enzyme tên là Ca++ ATPaza, còn gọi là
cái bơm Ca++ ra khỏi SER để Ca++ vào bào tương thì cơ co. Và ngược lại khi
cái bơm Ca++ bơm Ca++ trở lại cho SER thì cơ duỗi. SER của tế bào cơ mang
tên riêng; lưới nội sinh nhẵn của cơ (sarcoplasmic reticulum).
9. Bộ golgi.
71
72
Như trên đã nói, các thể đậm tức các túi vận tải mang protein từ RER đến
và đổ vào phía gần của dictiosom, protein được chuyển dần và trong tức về phía
xa (các protein đó là: các protein tiết proteoglycan, glycoprotein màng tế bào,
protein của tiêu thể và các glycolipid từ SER đến nữa ...)
Khi các chất này vào bộ golgi chúng được bộ golgi liên hệ thêm các chất,
việc làm này được gọi là thuần thục hóa nhằm tăng tính đặc hiệu cho từng loại
protein trong đó vần đề tín hiệu dẫn đường và nhận diện địa chỉ giao nhận là
quan trọng nhất. Sự liên kết đầu tiên là liên kết đồng hóa trị gồm sự glycosyl
hóa, sunphat hóa, sự cộng thêm axit béo. Các glycolipid cũng bị biến đổi. Sau
khi đã được thuần thục hóa, các chất về vị trí của mình liên kết tạm thời với các
phức hợp protein tiếp nhận (receptor) trên màng trong của túi dẹt để tạo nên các
túi cầu chứa các chất “tiết” khác nhau. Đấy là các túi cầu golgi, túi cầu này to
nhỏ khác nhau, nội dung bên trong khác nhau và rõ ràng là màng túi cũng khác
nhau kèm theo các receptor đặc hiệu của chất tiết.
Tất cả các tính chất trên đây: sai khác về hình thái, sai khác về thành phần
hóa học, hướng di chuyển vật chất qua dictiosom, các chức năng khác nhau của
các túi dẹt từ phía gần đến phía xa gọi là sự phân cực của dictiosom tức là của
bộ golgi.
9.2 Chức năng của bộ golgi
Nói một cách khái quát thì bộ golgi chuyên trách việc tiếp nhận protein và
glycolipid hoặc cả cacbohydrat, từ hệ LNSC đưa tới, thuần thục hóa chúng rồi
bao gói chúng lại rồi phân phát theo đúng địa chỉ tiếp nhận, có thể đó là các bào
quan, có thể dó là phía ngoài tế bào. Người ta gọi chung các chầt trên đây là chất
tiết.
Một số chức năng cụ thể của nó :
- Góp phần tạo nên các tiêu thể sơ cấp ở giai đoạn cuối
- Glycosyl hóa hầu như tất cả các glycoprotein của chất nhầy (một loại chất
tiết)
- Tạo nên thể đầu (acrosom) của tinh trùng
- Sự thuần thục hóa có các phản ứng:
+ Glycosyl hóa các hợp chất protit và lipid.
+ Sunphat hóa các glycoprotein bằng gốc SO4-- (este hóa).
+ Chuyển các phân tử protein sang cấu trúc bậc hai và bậc ba.
+ Gắn thêm các axit béo vào các chất đi qua dictiosom, polyme hóa các
chất polysaccarit.
+ Các chất tiết và có thể có các chất độc dược được bộ golgi đưa ra khỏi
tế bào bắng các túi golgi có cấu tạo màng giống màng tế bào. Sau khi mở túi ra
và tống các chất tiết ra ngoài thì màng túi hòa vào màng tế bào, phía trong màng
túi này thành phía ngoài màng tế bào và các cấu trúc cacbonhydrat trong màng
túi đã trở thành cấu trúc cacbonhydrat của lớp áo tế bào, và có thể bộ golgi là cơ
quan tạo nên phần lớn cấu trúc áo tế bào.
+ Với khả năng tạo các túi golgi có cấu tạo màng khác nhau để rồi các túi
đó hòa nhập vào các màng có cấu tạo72tương ứng, bộ golgi trở thành bào quan
73
biệt hóa các loại màng của tế bào.
10. Tiêu thể (lysosome)
Tiêu thể là bào quan tiêu hóa chính của tế bào dạng tồn tại liên quan tới
nó là tiêu thể sơ cấp, tiêu thể thứ cấp và các túi thải cặn bã. Một tế bào có nhiều
tiêu thể kích thước không bằng nhau, nằm rải rác trong bào tương.
73
74
10.1 Cấu trúc và thành phần hóa học của tiêu thể
Tiêu thể được mô tả chính là tiêu thể sơ cấp. Nó là một túi cầu nhỏ chỉ
bao bởi một lớp màng sinh chất nội bào. Thành phần hóa học gần giống với
màng tế bào về tỉ lệ P/L nói chung, nhưng thành phần cholesterol chỉ bằng một
nữa so với màng tế bào. Đặc biệt màng tiêu thể có một loại protein màng chuyên
để bơm cation H+ vào lòng tiêu thể để giữ cho độ pH trong tiêu thể luôn ở 4,8
hoặc thấp hơn (pH bào tương là 7 đến 7,3).
Lòng tiêu thể chứa các
enzyme tiêu hóa gọi là enzyme
thủy phân axit. Gọi là axit và
chúng làm việc trong điều kiện
pH axit (=5). Các enzyme đó có
thể quy về các nhóm chính sau
đây:
- Protease để thủy phân protein
- Lipase để thủy phân lipid
- glucozidase để thủy
phân glucid
- Nucleaza để thủy phân axit nucleic
Và một số nhóm khác : phosphatase, phospholipase, và sulphatase ...
Sự có mặt của các enzyme trên đây chứng tỏ tiêu thể có khả năng tiêu hóa
mọi chất hữu cơ của tế bào. Sự tiêu hóa xong sẽ cho lại các đường đơn, các axit
amin và các nucelotit và với khả năng này dường như các enzyme tiêu hóa lúc
nào cũng sẵn sàng để tiêu hủy cả tế bào. Thực vậy các enzyme thủy phân có ích
cho quá trình tiêu hóa bao nhiêu thì nguy hiểm cho tế bào bấy nhiêu nếu chúng
được tự do. Màng tiêu thể đã gói chúng lại nhưng cũng chính màng tiêu thể
cũng là màng sinh chất nhưng lại trụ được không bị thủy phân kể cả khi enzyme
đã chuyển từ trạng thái bất hoạt sang trạng thái hoạt động.
Màng tiêu thể có khả năng đặc biệt như thế nào để trụ được cơ chế còn chưa
biết rõ
đầy đủ.
Tính chất chỉ hoạt động trong 74pH axit tự nó cũng đã hạn chế khả năng
75
thủy phân
không đúng chỗ của nó khi do một nguyên nhân nào đó, màng tiêu thể rách,
enzyme bị rơi vãi ra bào tương, pH=7 của bào tương không cho phép enzyme
hoạt động. Người ta đã tìm thấy trong bào tương nấm men và có lẽ của các tế
bào khác các protein có khả năng liên kết và làm bất hoạt các protein thủy phân
khi bị thất thoát ra bào tương, tất nhiên khi lượng đó không nhiều.
75
76
Tuy nhiên, khi bị tác nhân kích thích hàng loạt tiêu thể bị vỡ cùng một lúc
sẽ gây nên sự tiêu bào.
Cũng có sự tiêu bào sinh lý để thanh toán những mô đã hoàn thành nhiệm
vụ ví dụ như sự tự tiêu đuôi nòng nọc.
10.2. Sự hình thành tiêu thể và quá trình hoạt động c tiêu thể
Enzyme tiêu hóa tức enzyme thủy phân axit được tổng hợp và đưa vào
lòng LNSC có hạt, tại đây các protein enzyme này được glycosyl hóa tại đầu
mút N của phân tử tức là tiếp nhận một oligosaccarit (đầu này sẽ làm tín hiệu
dẫn đường để đưa enzyme tới bộ golgi). Sau khi được glycosyl hóa, enzyme
được đẩy đến rìa của LNSC để tạo thành các túi cầu chứa enzyme, lúc này mang
tên là thể đậm. Thể đậm tìm đến phía lồi của bộ golgi, nhập vào túi dẹt golgi
phía lồi. Tại đây enzyme được photphorin hóa. Cụ thể là một hoặc vài đường
maltose của chuỗi oligosaccarit trên enzyme sẽ được phosphoryl hóa và cấu trúc
này sẽ là tín hiệu dẫn đường cho túi cầu golgi tìm đến tiêu thể sơ cấp. Sự
phosphoryl hóa này là điều kiện để cho enzyme được các ổ tiếp nhận (tức là các
receptor) protein trên bề mặt trong của các túi dẹt golgi tiếp nhận. Phần màng
của các túi dẹt golgi có mang liên kết receptor-enzyme thắt lại thành túi cầu
chứa enzyme. Điều chú ý là liên kết này được thực hiện khi maltose đã
phosphoryl hóa và tại pH trung tính, tức là pH của túi dẹt golgi trong trường hợp
này, và không thực hiện ở pH 4,8-5.
Túi cầu golgi có tín hiệu maltose dẫn đường sẽ đi tiếp đến tiêu thể sơ cấp,
hòa nhập với túi tiêu thể sơ cấp và trao76enzyme cho tiêu thể. Vì pH của tiêu
77
thể là 4,8 cho nên liên kết phosphat bị cắt (phosphatase xúc tác), và liên kết
receptor-enzyme cũng bị cắt. Receptor được giải phóng vẫn gắn trên một phông
màng còn lại của túi cầu golgi, khép lại thành túi kín và quay trở về với túi dẹt
golgi để làm việc lại trong lần sau.
77
78
Tại tiêu thể sơ cấp, các enzyme thủy phân dạng tiền thân-(proenzyme)
gặp pH 4,8 bị giáng cấp thành các peptid ngắn hơn để trở thành các enzyme thủy
phân ở trạng thái hoạt động.
Khi gặp không bào tiêu hóa chứa thức ăn từ ngoài vào hoặc gặp không
bào tự tiêu chứa các mảnh màng LNSC hoặc các ti thể, lạp thể già, cũ ... bị bào
tương thanh thải, sẽ hòa nhập với không bào để trở thành tiêu thể thứ cấp. Sự
tiêu hóa cho các đường đơn, axit amin và các nucleotid rồi trao cho bào tương để
tái tạo tế bào. Các chất cặn bã, chất độc được thắt vào túi bài tiết để đưa ra khỏi
tế bào theo cơ chế ngược lai với cơ chế nội thực bào.
Sự tiêu hóa các mảnh màng bị thanh thải được coi là sự làm trong sạch tế
bào.
10.3.Bệnh của tiêu thể
Từ bệnh tiêu thể chung chung dùng để chỉ sự thiếu hụt hay sai sót bất
thường của một enzyme nào đó trong tiêu thể (còn gọi là bệnh phân tử). Sự thiếu
hụt enzyme gây rối loạn trong chuyển hóa vật chất của cơ thể, trong nhiều
trường hợp chỉ thiếu một enzyme mà rất trầm trọng.
Một ví dụ : do thiếu enzyme thủy phân tên là B-N-hexoaminase A làm
cho gangliosit (GM2) tích tụ quá mức trong não gây rối loạn trong hệ thần kinh
trung ương, chậm trí tuệ và chết ở tuổi thứ 5. Bệnh gọi là bệnh Tay-Sachs di
truyền gen lặn.
11. Peroxysom :
Nói tiêu thể là bào quan tiêu
hóa chính vì còn bào quan tiêu hóa
khác tên là peroxysom. Peroxysom
chứa phần lớn catalaza của tế bào.
Ngoài ra catalaza còn enzyme oxy
hóa không chứa enzyme thủy phân
axit. Các protein của peroxysom
được tổng hợp tại ribosom tự do
trong bào tương. Chúng có tín hiệu
dẫn đường tới peroxysom. Sau khi
đến nơi thì tín hiệu này tách ra bằng
cơ chế thủy phân. Các enzyme oxy
hóa trong môi trường kiềm nhẹ.
Hoạt động chủ yếu của peroxysom
có liên quan tới H2O2 gồm cả phản
ứng tổng hợp và phản ứng phân
tích.
79
80
triển cá thể. Ví dụ: sự hóa xanh của mầm khoai, lục lạp ở quả xanh bằng sắc
lạp khi quả chín...
12.1 Cấu trúc của lục lạp
Là một bào quan hình hạt và khác với mọi bào quan khác ở chổ nó có 3
lớp màng: màng ngoài, màng trong và màng túi tức màng thylaokit.
- Màng ngoài: có tính
thấm cao.
- Màng trong:
kém thấm hơn và mang
các protein màng vận
tải chuyên trách
việc
đẩy
Glyxeraldehyt 3-
photphat, sản phẩm
glucid của lục lạp, ra
khỏi lục lạp để vào bào
tương.
Giữa hai màng này có
một khoảng gian màng
hẹp, có độ pH=7 như
bào tương.
Màng thứ ba là
màng quan trọng nhất
của lục lạp gọi là màng
túi tức là màng
thylakoit, tỉ lệ P/L rất
cao(=3). Màng thylakoit
đặc biệt rất nghèo
phospholipid: 80% lipid
cực là glycolipid và
sunpholipid (lipid cực
là lipid có khả năng liên
kết với nước).
Mặt ngoài màng túi
tiếp xúc với lòng lục lạp
(tức nền stroma)
Lòng lục lạp có độ
pH=8, chứa nhiều
enzyme tự do xúc tác
quá trình tổng hợp
glyxeraldehyt 3-
photphat, (P -GAL),
chứa tạm thời P-
80
GAL trước khi đẩy nó ra khỏi lục lạp., hoặc lưu giữ nó lâu dài dưới dạng tinh
81
bột sau khi đã chuyển nó thành glucose rồi thành tinh bột.
Mặt trong của màng túi tiếp xúc với khoang túi nơi có pH=5. Điều này có
liên quan mật thiết đến protein màng túi có những cái bơm cation H+ bơm H+
vào khoang túi giữ độ pH=5 cho khoang túi. Màng túi được hình thành từ màng
lục lạp trong. Màng lục lạp trong nhô ra và tách ra thành một hệ thống màng
mới, thay đổi thành phần cấu trúc một cách căn bản. Nhìn khái quát ở kích thước
siêu vi thì thấy những tấm túi mỏng xếp song song xen kẽ là các hạt gồm các túi
hình dĩa xếp chồng lên nhau. Hình chi tiết hơn do M.Anderson 1982 cung cấp
cho thấy: phần hình tấm mỏng cũng có khoang túi nhưng không gấp nếp, phần
gọi là hạt cũng là màng túi nhưng gấp nếp nhiều lần tạo thành một chồng đĩa
giống như một hạt.
Như trên đã nói, màng túi lục lạp chứa chlorophyl (diệp lục), chlorophyl
là một protein xuyên màng túi được tổng hợp trong bào tương. Ngoài
chlorophyl và cái bơm H+ là
81
82
những hệ thống quang hợp, các chất nhận và chuyển điện tử và những phức hợp
ATP synthetase, một phức hợp gồm nhiều enzyme có hình chùy, đầu hình chùy
có đường kính bằng 9nm. Phức hợp còn có tên là oxysom. Oxysom phosphoryl
hóa ADP thành ATP tức là những phân tử chứa đựng năng lượng dùng cho hoạt
động của tế bào.
Hệ thống quang hợp 2 chứa các sắc tố thu hút ánh sáng có bước sóng có
độ dài bằng 680nm , còn hệ thống quang hợp 1 chứa sắc tố thu hút ánh sáng có
bước sóng có độ dài bằng 700nm. Do hệ thống ánh sáng không hằng định, độ
dài bước sóng ánh sáng biến động từ 600 đến 700nm, sự phối hợp đồng thời các
hệ thống quang hợp khác nhau cho hiệu quả cao nhất.
- Lục lạp có ADN và ribosom riêng nên tổng hợp được protein cho nó.
12.2. Chức năng của lục lạp hay là hệ thống quang hợp
Lục lạp là bào quan chuyên việc thu hút ánh sáng năng lượng mặt trời để
một phần thì tổng hợp ngay ra phân tử ATP và một phần tích lũy năng lượng
vào trong các phân tử cacbohydrat sản phẩm chính của quá trình quang hợp.
Quá trình có hai giai đoạn, giai đoạn tiến hành có ánh sáng và giai đoạn không
cần ánh sáng gọi là phản ứng tối.
- Phản ứng sáng
Là một loạt các phản ứng hóa học và sự nhận và chuyển điện tử nhằm
mục đích phosphoryl hóa ADP để tạo nên các ATP và khử các NADP+ (hoặc
các phân tử tương tự) để tạo nên các phân tử NADPH tiền đề cho các phản ứng
tổng hợp các cacbonhydrat.
-
- Phosphoryl hóa vòng: vòng có ý nghĩa là điện tử (e ) bị bật ra từ phân tử
diệp lục sau khi hoàn thành công việc lại quay về trả lại cho phân tử.
-
- Phosphoryl hóa không vòng: không vòng có nghĩa là điện tử (e ) bị bật
ra khỏi phân tử diệp lục lúc ban đầu, sau đó nhập vào một phân tử diệp lục khác,
phân tử diệp lục cũ sẽ được cân bằng bằng một điện tử lấy từ nước. Quá trình
phosphoryl hóa không vòng diễn ra liên tiếp qua hai hệ thống quang hợp 2 và hệ
thống quang hợp 1. Hệ thống 1 có diệp lục a, hấp thu ánh áng bước sóng 700nm,
hệ thống 2 có diệp lục b hấp thu ánh sáng có bước sóng 680nm (diệp lục b khác
diệp lục a ở chỗ nó có nhóm CHO thay vào nhóm CH3 của diệp lục a)
- Phản ứng tối
Phản ứng tối là phản ứng quang hợp nhằm cố định CO2 qua một loạt các
phản ứng có xúc tác enzyme gọi là chu trình Calvin. Quá trình cần năng lượng
từ ATP và NADPH (hoặc NADPH2). Các phản ứng xảy ra trong lòng lục lạp:
các nguyên tử cacbon của CO2 nối với nhau và nối với H của NADPH đồng thời
gắn với một nhóm photphat. Sau đây là phản ứng tổng hợp:
5NADPH2 + 6CO2 + 2ATP 2C3H5O3 P + 5NADP + 2ADP + 3O2
C3H5O3 P là glyceraldehyt 3-photphat (P - GAL) = 3C
Một số P - GAL sẽ được chuyển từ lục lạp ra bào tương, tại đây chúng sẽ
trải qua những phản ứng nữa để cho glucose 6C.
2C3H5O3 P + H2O C6H12O6 + 2P + 1/2O2
Glucose 82
83
Năng lượng tích lũy trong một phân tử glucose tương đương với một nhiệt
lượng
780.000 calo; thực vật dự trữ glucose dưới dạng tinh bột :
n (C6H12O6) (C6H10O5)n + nH2O
Tinh bột
- ADN của lạp thể
Lạp thể có ADN riêng dạng vòng, dài khoảng 145.000 đôi bazơ. Mã hóa
các gen của 27 tARN và mARN, tổng hợp nên các protein riêng của mình. Có
điều đặc biệt là một số loài thực vật có ADN lạp thể có hai bản sao giống nhau
trên cùng một vòng nhưng sắp xếp ngược
83
84
chiều nhau đối với gen của rARN. Trong cùng một chi như chi đậu Hà Lan có
loài chỉ có một bản sao gen ribosom có loài lại có 2 bản sao. Phần lớn protein
của lạp thể nhập từ bào tương. Lạp thể chỉ sinh ra từ lạp thể. Tiền thân của lạp
thể là lạp thể chưa thuần thục chứa ít protein màng túi. Chỉ có màng ngoài và
màng trong, màng túi chưa phát triển, lòng lạp thể nhỏ. Khi ra ánh sáng lạp thể
sẽ phát triển dần.
13. Ti thể
Ti thể là bào quan được gọi là hô hấp của tế bào. Là những thể hình túi
như quả bí đao nhỏ, có nhiều và rải rác khắp bào tương, đặc biệt tập trung nhiều
ở nơi hoạt động mạnh trong tế bào. Tế bào gan động vật có vú có tới 1000-1500
ti thể.
13.1. Cấu trúc và thành phần hóa học của ti thể.
Túi ti thể được
chia thành hai
màng chia ti thể ra
thành hai phần
tách biệt. Khoảng
gian màng và lòng
ti thể.
Màng ti thể
ngoài: cũng là
màng sinh chất: tỉ
lệ P/L bằng hoặc
hơn 1. Tuy tỉ lệ
này gần giống như
tỉ lệ của màng
nhưng thành phần
bên trong có khác,
rưỡi so với màng tế bào). cholesterol thấp,
bằng 1/6 so với
màng hồng cầu,
(photphatidyl
cholin cao gấp hai
lần
Đặc biệt màng ti thể nói chung phải tiếp thu phần lớn protein ti thể sản
xuất từ bào tương để xây dựng ti thể và để hoạt động nên cấu tạo của màng đặc
biệt là màng ti thể ngoài có những phức hợp protein làm nhiệm vụ vận tải đặc
hiệu protein vào ti thể, khi ở bào tương chúng mang một chuỗi axit amin ở phía
đầu -N của sợi protein để làm tín hiệu dẫn đường. Sợi protein này hoặc nhờ tín
hiệu dẫn trực tiếp đến màng ti thể trong hoặc ngoài để tích hợp vào màng lipid
kép hoặc đi vào khoảng gian màng hoặc lòng ti thể; cách thứ hai là vẫn nhờ tín
hiệu dẫn đường nhưng phải qua ổ thu nhận (receptor) đặc hiệu trên màng ti thể
ngoài. Khi tín hiệu dẫn đường đã xong việc thì nó sẽ rời ra khỏi protein nhờ thủy
phân rồi giáng cấp trong lòng ti thể.
- Khoảng gian màng : xen kẽ84giữa hai màng, môi trường gian màng
85
tương tự và cân bằng với bào tương ( khoảng gian màng chứa cytochrom và b2.
Cytochrom peroxydase, các enzyme sử dụng ATP từ lòng ti thể đi ra để
phosphoryl hóa các nucleotid nhưng không phải là adenin).
- Màng ti thể trong: màng ti thể trong trừ một số trường hợp nhỏ thành
hình ống xòe kín lòng ti thể, còn thì đều gấp thành nếp xen vào lòng ti thể, các
nếp gấp gọi là mào. Sự tăng số lượng mào nhằm tạo thêm diện tích làm việc của
màng trong.
Màng trong cũng là một màng sinh chất nhưng P/L rất cao (=3),
cholesterol thấp, bằng một nửa so với màng ti thể ngoài, chứa một phospholipid
gọi là cariolipid với khả năng chặn ion H+ lại. Protein màng trong có 3 nhóm:
85
86
- Nhóm vận tải các chất đặc hiệu chuyển hóa qua lại màng trong.
- Phức hợp enzyme ATP synthetase để tổng hợp ATP.
- Nhóm thực hiện các phản ứng oxy hóa của chuỗi hô hấp tức là nhận và
chuyền điện tử là H+ và oxy hóa H+.
` - Lòng ti thể: Lòng ti thể chứa nhiều loại khác nhau, phần lớn là enzyme-
protein do ti thể tự tổng hợp lấy nhờ ADN của mình và protein từ bào tương
vào. Trong số các enzyme có enzyme oxy hóa pyruvat và các axit béo từ ngoài
bào tương vào thành acetyl CoA, các enzyme của chu trình Kreb, chuyển axit
citric (2C) thành CO2 (1C) và NADH. CO2 sẽ đi ra khỏi ti thể, còn NADH sẽ
đến màng ti thể trong để gặp chuỗi hô hấp. Lòng ti thể còn chứa ADN riêng của
ti thể.
13.2. Chức năng của ti thể hay quá trình hô hấp của tế bào
Loại hô hấp này được gọi là hô hấp ái khí tức là có cần O2, gồm hai giai
đoạn: giai đọan phân ly glucose thực hiện trong bào tương và giai đoạn oxy hóa
pyruvat thực hiện trong ti thể.
* Sự phân ly glucose:
Ở giai đoạn này, glucose 6 cacbon bị tách làm đôi thành hai phân tử axit
pyruvic 3 cacbon. Phản ứng nhờ các enzyme có trong bào tương. Phản ứng tổng
quát như sau:
C6H12O6 + 2ATP 2C3H4O3 + 4H + 2ADP + 2P + 4ATP
Glucose Axit pyruvic
Phân tử glucose đã dùng 2 phân tử ATP để cho hai phân tử axit pyruvic,
năng lượng thu được là 4ATP trả lại 2ATP đã dùng còn lại 2ATP.
* Chu trình Krebs:
Các phân tử pyruvat đi vào ti thể đồng thời với các axit béo, chúng đi vào
chu trình Kreb trong lòng ti thể.
Pyruvat và axit béo được oxy hóa thành acetyl CoA ( một hợp chất 2C)
nhờ enzyme pyruvat dehydrogenase.
Nhóm acetyl CoA 2 cacbon này sau đó đi vào chu trình axit citric nhờ các
enzyme của chu trình này để tiếp tục giáng cấp xuống C1 và tạo ra một lượng
lớn các NADH (và FADH2).
(Ở đây chúng ta thấy ngoài pyruvat ra còn có axit béo. Một mình pyruvat
cũng tạo ra được acetyl CoA nhưng khi chúng ta đói thì phần lớn acetyl CoA là
do axit béo dự trữ trong cơ thể cung cấp. Thường thì cả hai quá trình này vẫn
cùng xảy ra với tỉ lệ bên ít bên nhiều tùy theo lượng glucose đưa vào cơ thể.
Điều cần chú ý là trong tế bào động vật khi đường đã chuyển hóa thành axit béo
thì không thể chuyển lại được).
Chu trình axit citric còn gọi là chu trình axit tricacboxylic hay là chu trình
Krebs. Chu trình này oxy hóa nhóm acetyl trên acetyl CoA để tạo nên NADH và
FADH2 và sản phẩm cuối cùng chứa 1 cacbon là CO2.
NADH và FADH2 cung cấp các điện tử của chúng cho chuỗi hô hấp trên
màng ti thể trong và cuối chuỗi các điện tử được dùng để khử O2 thành
H2O. 86
87
Các phản ứng tóm tắt như sau :
CH3COOH + 2H2O + 3NAD+ + FAD 2CO2 + 3NADH + FADH2
(dạng acetyl CoA)
Phản ứng này cũng sinh năng lượng và tạo nên 1 ATP nhờ phản ứng
phosphoryl hóa kiểu như trong phân ly glucose. Phần lớn năng lượng vẫn còn
nằm trong các điện tử mang bởi NADH và FADH2.
* Chuỗi hô hấp :
87
88
Chuỗi hô hấp chứa các phức hợp enzyme lớn nằm trên màng trong của ti
thể, 3 nhóm chính là:
- -
- NADH dehydrogenase tiếp nhận e từ NADH, chuyền e cho ubiquinon.
Ubiquinon chuyền tiếp cho:
- Phức hợp b-c1, phức hợp này lại chuyền cho Cytocrom c ( 1 protein
màng ngoại vi), Cytocrom c chuyền tiếp cho:
-
- Phức hợp Cytocrom oxydase và cuối cùng chuyền từng e một cho từng
phân tử O2 để tạo nên hai phân tử nước.
Viết gọn lại ta có :
NADH NADHdehydrogenase Ubiquinon Phức hợp b-
c1 Cytocrom c Phức hợp Cytocrom oxydase O2
Đấy là quá trình nhận và chuyển điện tử theo một hướng nhất định, quá
trình này diễn ra đồng thời với sự đẩy các proton (H+) ra khỏi lòng ti thể.
Gradien proton điện hóa học ( hiệu thế do chênh lệch nồng độ H+), mà chuỗi hô
hấp đã tạo nên được sử dụng để thành lập các ATP nhờ phức hợp protein xuyên
màng ATP synthetase. Công thức tóm tắt như sau :
2C3H4O3 + 6H2O 6 CO2 + 20H
Axit pyruvic 4H + 20H = 24H; 24H + O2 + O2 + ... + O2 12H2O
Năng lưọng được giải phóng khỏi pyruvat trong ti thể tương đương với 36
ATP. Cộng với 2ATP do phân ly glucose được tất cả là 38ATP. Đó là số ATP
tổng cộng do oxy hóa một phân tử glucose trong tế bào. Biết rằng khi hình thành
một phân tử ATP cần 8 Kcal. Vậy cứ 38 ATP tức 8 Kcal x 38 = 304 Kcal.
Khi một phân tử glucose cháy tự do, nó cho 688.000 cal tức 688 Kcal.
Vậy năng suất sinh học của một phân tử glucose là :
304
= 44%
688
Trong thực tế còn bị tiêu hao dưới dạng nhiệt và chỉ còn dưới 10%.
Quá trình tổng hợp ATP từ ADP xảy ra trong ti thể gọi là sự phosphoryl hóa
oxy hóa.
Sự tổng hợp tỉ lệ với sự tiêu thụ oxy trong tế bào. Thiếu Oxy thì sự tổng hợp ATP
giảm.
Ở vi khuẩn ái khí không có ti thể. Các phức hợp phân tử thực hiện sự hô
hấp của tế bào nằm trong màng vi khuẩn.
13.3. ADN ti thể
Ti thể cũng sinh sản kiểu nhân đôi ( phân chia ) như tế bào. Không có sự
tổng hợp ra ti thể mới. Chúng có ADN riêng, có ribosom riêng tuy không đủ cho
toàn bộ nhu cầu về protein của chúng. Sự phân chia của ti thể không theo cùng
nhịp điệu của sự phân bào của tế bào mang ti thể. ADN của ti thể giống như
ADN của vi khuẩn, hình vòng, có một hoặc hai vòng trong một ti thể, tự do
trong lòng ti thể hoặc có khi bám vào màng ti thể trong.
Ở người bộ gen của ti thể rất ổn định, có chút ít đa hình mang tính
88
chủng tộc. Và điều độc đáo nhất là tuy cũng là một phân tử ADN sợi kép hình
89
vòng như vi khuẩn nhưng điều khác là cả hai vòng đơn đều có gen mã hóa độc
lập với nhau. Nội dung mã hóa của ADN coi như kín. Khi bên này là intron thì
bên kia là gen và tất nhiên gen của hai bên phải làm việc trái chiều nhau. Các bộ
ba mã có vài chi tiết không giống như bình thường. Ví dụ UAG thì mã hóa
trytophan chứ không phải là mã chấm câu, AGA và AGG thì lại chấm câu chứ
không mã hóa arginin.
Phần lớn protein của ti thể (khoảng 9/10) là do nhân tế bào phụ trách.
Khoảng trên 10/100 protein của mình thì ti thể tự mã hóa. ADN của ti thể người
dài 16.569 đôi bazơ, chứa
89
90
các gen của rARN 12S và 16S, 22 loại tARN, các phân đơn vị I, II, III của
cytochrom oxydase, phân đơn vị 6 ATPaza, cytochhrom b và 8 gen protein
khác. Khi có đột biến gen trong ti thể cũng gây nên khuyết tật protein đặc biệt là
các enzyme liên quan đến năng lượng sẽ gây nên các bệnh di truyền. Một số
bệnh đã được phát hiện có liên quan đến thần kinh và cơ.
Cơ chế di truyền của ADN ti thể: ở người, noãn bào có rất nhiều ti thể,
tinh trùng chỉ có 4 cái (do nhiều cái hợp lại) quấn quanh cổ tinh trùng, khi thụ
tinh thì ti thể tinh trùng ở lại không vào noãn bào, có nghĩa là trong hợp tử chỉ
có toàn là ti thể của noãn bào và mọi tế bào cơ thể về sau đều mang ti thể nguồn
gốc từ mẹ. Và nếu có bệnh do đột biến gen ti thể thì bệnh đó chỉ do mẹ truyền
cho mà thôi. Tính trạng đó được di truyền theo dòng mẹ và phân bố giống nhau
ở con trai cũng như con gái. ADN ti thể có vai trò chính trong cơ chế di truyền
dòng mẹ nhưng cũng có ngoại lệ như người ta đã thấy ở một loài biện mang, vai
trò của ADN ti thể của bố mẹ là ngang nhau ở thế hệ con.
Do một tế bào chỉ có một bộ gen trong nhân mà lại có đến hàng ngàn ti
thể cho nên xác suất để ADN ti thể tồn tại khi tế bào bị hủy hoại (kể cả khi bị
đốt cháy) cao hơn nhiều so với ADN nhân. Người ta đã vận dụng chi tiết này để
xác định cá thể cụ thể các nạn nhân bị đốt cháy tập thể.
- Tính chất nửa tự trị của ti thể : người ta thấy cấu trúc của ti thể giống
như của Prokaryota nên người ta nghĩ rằng từ xa xưa những tế bào Prokaryota
đã xâm nhập vào bào tương của tế bào Eukaryota , và cộng sinh với nhau. Một
số gen của ti thể tách dần ra và sát nhập vào bộ gen của tế bào chủ, ngày nay ti
thể chỉ còn lại một phần nhỏ số gen riêng của mình mã hóa cho protein riêng của
mình theo kiểu độc lập một phần về phương diện di truyền. Người ta gọi hiện
tượng này là tính chất tự trị của ti thể.
14. Trung thể
Trung thể có ở mọi tế bào động vật (trừ tế bào thần kinh), có ở tế bào thực
vật bậc thấp, không có ở tế bào Prokaryota và thực vật bậc cao hay nói một cách
khác có ở mọi loài sinh vật bậc cao có ít nhất một giai đoạn có tế bào di động.
14.1 Cấu trúc trung thể
Trung thể bao gồm trung cầu và hai trung tử. Thường trung thể nằm gần
nhân tế bào, và đôi khi kề với bộ golgi; ở một số tế bào biểu mô, trung thể
không nằm cạnh nhân và bộ golgi mà nằm mãi phía sát màng tế bào.
Ở hình hiển vi điện tử, mỗi trung tử có hình như một mẫu bút chì đường
kính khoảng 150 nm, và dài từ 300 đến 500 nm, một đầu kín và một đầu hở.
Thường thì trong lòng của mẫu hình ống của trung tử ấy có chứa dịch, trong
dịch có nhiều hạt lấm tấm màu đậm. Thành ống làm bằng 9 tấïm sườn, mỗi tấm
sườn là một cấu trúc sợi dọc xếp song song; gồm 3 ống vi thể xếp liền nhau, trên
lát cắt ngang thấy có 3 ống khoanh tròn xếp thành một hàng. Ống vi thể gần tâm
trung tử nhất gọi là sợi a, hai ống kia gọi là sợi b và sợi c. Các tấm sườn không
nối nhau để tạo thành một diện tích liền bao quanh hình trục của trung tử mà xếp
cách đều nhau sao cho các sợi a đều nằm trên một vòng tròn ( hình cắt ngang) và
mặt tấm sườn làm cùng mặt phẳng tiếp tuyến với vòng tròn ấy một góc bằng
300. Sợi a tấm sườn này nối với sợi c tấm sường cạnh nó bằng một nhóm sợi
90
xen kẽ. Nhìn trên lát cắt các tấm sườn xếp theo hình cánh quạt 9 cánh. Cấu
91
trúc 9 tấm sườn và ruột rỗng gọi là cấu trúc 9 + 0. Hai trung tử thấy bao giờ
cũng vuông góc với nhau.
91
92
Thực vật bậc cao không có trung tử nhưng vẫn có thoi, không có sợi sao.
14.2. Sự hình thành trung thể
Ở những tế bào mà sự phân bào cần đến trung thể thì ở kỳ đầu phân bào,
trước khi xuất hiện thoi vô sắc thấy xuất hiện thêm một trung thể mới bên cạnh
trung thể cũ. Mới đầu khi bắt đầu xuất hiện thấy tiền thân các trung tử, từ ngắn
đến dài dần ra, các ống vi thể cũng hiện rõ dần ra, kiểu như được tổng hợp dần.
Hiện tượng trung thể mới sinh ra ngay cạnh trung thể cũ làm cho người ta tưởng
nhầm là trung thể có ADN riêng nhưng không phải như vậy.
Sau khi đã hình thành xong trung thể mới di chuyển về cực đối diện với
cực tế bào mà trung thể cũ đang đứng. Liền sau đó là sự xuất hiện các sợi vô sắc
từ khu vực quanh trung tử tạo thành một hệ thống sợi hình thoi làm cơ sở cho sự
chia đôi số lượng các nhiễm sắc thể lúc phân bào. Quanh trung tử có các sợi
ngắn gọi là sợi sao. Tế bào thực vật không có sợi sao.
14.3. Chức năng của trung thể
Ở những sinh vật mà tế bào có trung thể thì trung thể có vẻ như rất quan
trọng trong việc làm mốc cho thoi vô sắc để đảm bảo sự chia đôi bộ nhiễm sắc
thể đúng số lượng và đúng hướng. Song ở thực vật bậc cao nơi mà hạt phấn thụ
tinh nhờ gió đã thay cho tinh trùng phải bơi lội để thụ tinh thì không có trung
thể. Và thoi vô sắc vẫn làm chức năng một cách chính xác.
Ở các loài nguyên sinh vật không có loài nào dùng trung thể để phân bào
cho dù tế bào vẫn có trung thể. Ở các loài đó trung thể có vai trò như thể gốc của
các loài có lông hay roi để bơi lội. Phải chăng ở đây trung thể chính là thể gốc.
Thể gốc của nguyên sinh vật và cả của tinh trùng có công thức cấu trúc cơ bản
giống công thức 9 + 0. Ở giữa trung tử của thể gốc có thêm hai thể sợi dọc theo
lòng trung tử; và công thức cấu trúc là 9 + 2. Cũng vì lẽ trên đây mà nhiều tác
giả cho rằng trung thể là một bào quan có liên quan đến sự vận động kể cả khi
nó có vai trò trong sự phân bào.
15. Không bào 92
93
Nếu lấy tiêu chuẩn là một cấu trúc trong bào tương được giới hạn bằng
màng sinh chất nội bào thì có thể coi không bào như một bào quan.
93
94
Ở một số động vật đơn bào, không bào là bào quan thực sự như không
bào tiêu hóa, không bào bài tiết điều tiết nước cho tế bào. Ở thực vật không bào
chứa chất dự trữ. Nói chung chúng đều chứa đầy dịch.
94
95
thể làm chỗ bám cho các cấu trúc khác của tế bào.
95
96
96
107
Hình 6.7. Cách phát sinh một số cấu trúc nhiễm sắc thể
a. Mất đỉnh: do đứt và không dính lại; b. Mất đoạn: do vòng và đứt
dọc; c. Đảo đoạn: do vòng và đứt ngang; d. Lặp đoạn và mất đoạn:
do NST chéo chữ thập và đứt dọc, kết quả một tăng đoạn và một mất
đoạn; e. Chuyển đoạn: hai NST không tương đồng chéo nhau, đứt ra
và nối lại.
108
109
Kiểu hình: ABC (dị hợp tử bình thường) aBC (a biểu hiện giả trội)
Hình 6.8. Sơ đồ mô tả hiện tương "giả trội" - Sự mất đỉnh của đoạn NST mang gen trội A
cho phép alen lặn a có biểu hiện kiểu hình.
Sự mất đoạn ở cá thể dị hợp có thể phát hiện ở kì trước của giảm phân I
khi các
NST tương đồng bắt cặp. Nếu có mất đoạn sẽ thấy xuất hiện một vòng tròn do
không có đoạn NST tương đồng.
Ví dụ về đột biến mất đoạn ở người: khi mất vai ngắn của NST số 5,
karyotype 46,XY,del(5p) dẫn đến hội chứng mèo kêu (Cri du chat). Trẻ sơ
sinh bị hội chứng này có tiếng khác như mèo kêu. Bệnh được gặp với tần số
1/50.000 trẻ, biểu hiện chậm trí, đầu nhỏ và hiếm khi sống được tới lúc trưởng
thành.
Sự mất một phần vai dài của NST số 22 (được gọi là NST Philadelphia,
lấy tên thành phố nơi phát hiện ra đầu tiên). Nó được tìm thấy ở tế bào tủy
xương (cùng với các tế bào có NST bình thường) của 90% những người bệnh
bạch huyết myelocyt kinh niên (một dạng ung thư). Thường đoạn bị mất đó
được chuyển đến một NST dài hơn (thường là NST số 9).
1.1.2. Lặp đoạn (tăng đoạn - Duplication)
Các lặp đoạn NST có thể tăng lên bằng nhiều cách khác nhau. Nói
chung sự lặp đoạn không gây hậu109quả nặng nề như mất đoạn, thậm chí
110
một số lặp đoạn có lợi cho tiến hóa là tạo vật liệu di truyền mới.
Lặp đoạn có thể ở cạnh nhau, xa nhau trên cũng một NST hay ở vào
các NST khác. Nhờ lặp đoạn có thể nghiên cứu ảnh hưởng của số lượng và vị
trí khác mức bình thường của một đoạn NST hay gen. Kiểu hình của lặp đoạn
có khi trội, có khi lặn hay trung gian hoặc có tác động tích lũy.
Trường hợp điển hình về lặp đoạn là đột biến trội mắt thỏi Bar (B) nằm
trên NST X của Drosophila. Trường hợp tăng một đoạn, dị hợp tử +/Bar thì
mắt bé hơn bình thường
110
111
một ít, hẹp cạnh nên có dạng kéo dài. Ruồi đồng hợp BB có mắt nhỏ hơn. Nếu
lặp đoạn đôi, tăng hơn bình thưòng 2 đoạn sẽ là đột biến Bar kép, có kiểu hình
mắt nhỏ hơn nữa nên gọi là "thỏi kép". Số đoạn lặp lại có thể đến 7 đoạn
thành "siêu Bar" mắt nhỏ nhất.
Gen mắt thỏi B có tác động gia tăng theo chiều giảm kích thước mắt, số
đoạn lặp càng nhiều, mắt càng bé. Có trường hợp khác, lặp đoạn tác động
theo hướng ngược lại, số đoạn càng tăng thì kiểu hình càng trở về bình
thường hơn.
Các kiểu gen hoang dại, Bar và Bar kép tương ứng với các đoạn trên NST khổng
lồ
Sự tăng đoạn Bar như một nhân tố trội về mặt di truyền. Khi nuôi các
ruồi Bar đồng hợp tử BB nhận thấy các ruồi hoang dại xuất hiện ở ruồi con
với tần số1/1.600 và các ruồi Bar kép cũng xuất hiện với tần số tương tự. Sự
xuất hiện các kiểu hình bất thường có thể giải thích bằng trao đổi chéo không
cân bằng khi tiếp hợp ở giảm nhiễm I.
1.1.3. Đảo đoạn (Inversion)
Đảo đoạn xảy ra lúc đoạn trong đứt đi quay 1800 rồi được nối lại.
Giả sử trình tự bình thường của đoạn NST là 1-2-3-4-5-6, hai chỗ bị
đứt xảy ra ở vùng 2-3 và 5-6 và đoanh bị đứt nối đảo ngược. Như vậy NST có
đoạn 1-2-5-4-3-6
112
113
Ví dụ ở dị hợp tử có đảo đoạn xảy ra trao đổi chéo ở vùng 3-4. Các
NST tái tổ hợp có đoạn trắng đoạn đen đều làm giao tử mất sức sống vì có gen
thừa, có gen thiếu.
+ NST đen trắng bên trái có các gen (6-3-4-56) (2 gen 6, thiếu gen 1-2)
+ NST đen trắng bên phải có các gen (1-2-5-4-3-2-1) (2 gen 1-2, lại thiếu
gen 6)
cầu
Đoạn không tâm động
Hình 6.11.Trao đổi chéo xảy ra ở đoạn không mang tâm động
Các NST không có trao đổi chéo (trắng cả hay đen cả) tạo giao tử có
sức sống, số khác tạo giao tử mất sức sống vì không cân bằng di truyền. Đoạn
không tâm động (acentric fragment) tạo ra sẽ bị mất vì không di chuyển được
về cực. Một nữa sản phẩm của giảm phân sẽ mất sức sống vì do thừa và thiếu
gen, 1/4 có sức sống bình thường và 1/4 có sức sống với NST có đảo đoạn.
Biến đổi cấu trúc giữa các NST:
1.1.5. Chuyển đoạn (Translocation) 113
114
Chuyển đoạn là sự trao đổi các đoạn giữa các NST không tương đồng.
Trao đổi đoạn có thể xảy ra trong đôi NST tương ứng (thường khác chức
năng) như giữa X và Y hoặc giữa các NST khác đôi.
Sự chuyển đoạn thuận nghịch (reciprocal) xảy ra do sự tao đổi các đoạn
giữa 2 NST không tương đồng.
114
115
Trong giảm phân, các NST có chuyển đoạn tiếp hợp với nhau tạo nên hình
chéo.
Tiếp theo khi các NST đẩy nhau để về các cực, sẽ có 2 trường hợp:
+ Bốn NST vào cuối kỳ trước I đẩy nhau tạo nên vòng tròn. Sự phân ly
trong trường hợp này sẽ tạo nên các giao tử không sức sống vì mang một số
NST có dư hoặc thiếu gen. Ví dụ: 1-4-3-4 thiếu 2 và 1-2-2-3 thiếu 4.
+ Sự hình thành số 8 do đẩy chéo nhau giữa các NST. Trong trường
hợp này các giao tử được tạo nên có sức sống vì có cân bằng gen (mỗi giao tử
đều có 1-2-3-4).
Hai trường hợp trên xảy ra với xác suất như nhau nên các dạng có
chuyển đoạn thường nữa bất dụcc (50% giao tử chết). Tiêu chuẩn thứ hai để
phát hiện các chuyển đoạn là có sự thay đổi nhóm liên kết gen. Một số gen
của một nhóm liên kết gen có thể chuyển sang nhóm liên kết gen khác. Ngoài
các hệ quả di truyền trên, chuyển đoạn có thể gây hiệu quả vị trí (position
effect). Các gen khi dời chỗ có thể có biểu hiện khác, ví dụ từ vùng đồng
Sự sắp xếp chuẩn của NST
Dị hợp tử có chuyển
đoạn thuận nghịch
Tiếp hợp
Hình 6.12. Sự hình thành chuyển đoạn và sự tiếp hợp của chúng
trong giảm phân I
Hình 6.13. Các NST Hình 6.14. Các NST tạo vòng tròn và
đẩy nhau tạo thành sự phân ly của chúng (Mũi tên chỉ
hình số 8 hướng phân li về các cực)
dạng"X dính" do sự phân chia tâm động theo chiều vuông góc với bình
thường. Do sự phân chia khác thường đó, 2 chromatid thay vì phân li về 2 cựu
lại dính nhau, có đoạn bị mất.
* Chuyển đoạn Robertson (Robertsonian translocation)
Một chuyển đoạn đặc biệt được gọi là Robertson. Đây là trường hợp
hình thành NST tâm giữa do sự nối lại của 2 NST. Chuyển đoạn thuận nghịch
được thực hiện giưa 2 NST tâm đầu A và B, khi A bị đứt phía dưới tâm động
tạo vai dài mất tâm động, còn B bị
116
117
đứt ở đầu mút ngắn trên tâm động, 2 đoạn nối nhau tạo NST tâm đều mang tâm
động của
B. Đoạn có tâm động A với vai ngắn nối với đoạn ngắn của B hình thành
NST con có tâm động A. NST con mới có nhiều châtss dị nhiễm sắc không
Kết lại
Tách ra
Thường bị mất
quan trọng nên thường mất đi. Chuyển đoạn Robertson có hậu quả làm giảm
số lượng NST.
Hình 6.15. Sự hình thành NST tâm giữa do sự nối lại của 2 NST tâm đầu
(chuyển đoạn Robertson)
Người có 46 NST, các vượn người (hắc tinh tinh, khỉ đột, đười ươi) có
48 NST. NST thứ hai của người gồm hai đoạn giống 2 NST khác nhau của
các vượn người. Rất có thể từ tổ tiên chung, một chuyển đoạn Robertson đã
tạo nên loài người do sự nối lại của 2 NST khác nhau, làm giảm số lượng còn
46 thay vì 48 như ở các loài vượn người.
2. Đột biến số lượng NST.
Đa bội thể (polyploidy): hiểu theo nghĩa rộng là sự thay đổi số lượng
NST. Sự thay đổi số lượng NST có nhiều kiểu: đa bội nguyên (euploidy), đa
bội lai (alloploidy) và đa bội lệch (aneuploidy)
2.1. Đa bội nguyên
Sự tăng nguyên lần bộ NST đơn bội của một loài, được gọi là đa bội thể
nguyên hay đa bội thể thuần. Đây là đa bội hiểu theo nghĩa hẹp, nếu có cá thể
2n NST thì dạng 3n, 4n, 5n ... là các dạng đa bội thể.
- Thể đơn bội (Monoploid): một số sinh vật Eukaryote bậc thấpnhư vi
nấm, vi tảo có nhân dơn bội. Các cơ thể đơn bội ở sinh vật bậc cao thường ít
hơn và có sức sống kém hơn dạng lưỡng bội bình thường. Các thực vật đơn
bội đã được tìm thấy nhưng thường bất thụi. Một số ít động vật tồn tại ở dạng
đon bội. Một ngoại lệ đáng lưu ý là ong đực và ong vò vẽ.
- Thể tam bội (Triploid): tam bội NST (3n) có thể được tạo nên do sự
kết hợp giữa các giao tử đơn bội với giao tử lưỡng bội. Bộ NST đon bội thứ
ba của thể tam nhiễm thường phân bố vào các tế bào sinh dục với nhiều loại
tổ hợp khác nhau, tạo nên các giao tử mất cân bằng di truyền. Các thể tam bội
có độ bất thụ cao nên trong thiên nhiên, chúng thường ở dạng sinh sản vô tính
như cây chuối.
- Thể tứ bội (Tetraploid): tứ bội NST (4n) có thể xuất hiện trong các tế
bào cơ thể do sự tăng đôi số NST117của tế bào soma. Sự tăng đôi số NST
có thể xảy ra nhờ tác động của alkaloid colchicine vào tế bào hoặc do
118
sự hợp nhất của các giao tử 2n.
Trong cơ thể lưỡng bội, tế bào một số mô chuyên biệt trở thành đa bội.
Ví dụ một số tế bào gan của người là thể đa bội, nội nhủ của hạt nhiều loài
thực vật là thể tam bội.
2.2. Đa bội thể lai: còn gọi là thể dị bội
Đa bội thể lai có được khi cả 2 bộ NST của 2 loài khác nhau cùng đứng
chung trong một tế bào (2nA + 2nB).
118
119
120
121
3.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng (dose) và cường độ bức xạ (radiation intensity)
Các thí nghiệm sau năm 1927 với bức xạ năng lượng cao cho thấy các
đột biến gây tạo (đột biến cảm ứng) phụ thuộc rất lớn vào liều lượng, liều
càng lớn tần số đột biến càng cao. Khi liều lượng quá cao, sự phụ thuộc có
phức tạp hơn, có thể do nhiều tế bào bị chết.
Điểm đáng lưu ý, nhiều nghiên cứu cho thấy các bức xạ ion hóa có hiệu
quả gây đột biến ở tất cả các sinh vật và không có liều lượng ngưỡng, có
nghĩa là dù liều lượng thấp vẫn có khả năng gây đột biến.
3.2. Tác động của tia tử ngoại
Tia tử ngoại có bước sóng dài (10-5-10-6 cm) nên khó tạo ion, có lẽ chỉ
tác động đến những chất hấp thu nó trực tiếp. Trong tế bào các chất hữu cơ
mạch vòng chủ yếu như purin và pyrimidin hấp thu trực tiếp tia tử ngoại. Mối
liên quan chặt chẽ giữa tia tử ngoại và các cấu phần ADN đã được chứng
minh. ADN hấp thu tia tử ngoại mạnh nhất ở bước sóng 2537 Ơ, đây chính là
bước sóng làm tăng tần số đột biến ở hạt phấn cây bắp.
Dưới tác dụng của tia tử ngoại, cytosine gắn thêm phân tử nước vào
liên kết C=C của mạch vòng và thymine bị đứt liên kết C=C mạch vòng nối 2
phân tử thành dimer thymine.
3.3. Các tác nhân gây đột biến hóa chất
Có nhiều hóa chất gây biến dị di truyền, đến nay đã tìm ra những hóa
chất cho hiệu quả đột biến cao hơn phóng xạ. Các hóa chất gây đột biến có
đặc điểm là chỉ có thể gây hiệu quả đột biến đối với một số ít đối tượng.
Các tác nhân gây đột biến hóa học có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Các chất ức chế tổng hợp bazơ nitơ trong cấu trúc ADN như
cofein, ethyl uretan ...
Nhóm 2: các chất đồng đẳng với bazơ nitơ như cofein, 5-bromuracil,
các chất này gần giống với bazơ nitơ nên ADN gắn nhầm khi tổng hợp.
Nhóm 3: Các chất alkyl hóa làm đứt mạch ADN như ethyl
methanesulfonate (EMS), methyl methanesulfonate (MMS), ethylene imine
(EI) ...
Nhóm 4: Các chất khác như chất oxy hóa - khử như HNO2,
hydroxygenlamine (H2NOH).
Nhóm 5: Các chất chêm vào ADN gồm proflavin, chất màu acridin.
Tất cả tác nhân gây đột biến đều là tác nhân gây ung thư, nhưng các tác
nhân gây ung thư không phải đều gây đột biến. Hiện nay nhiều tác nhân gây
đột biến được sử dụng trong chọn giống nhằm tăng nguồn biến dị.
121
122
4
Hình 6.16. Hội chứng Down
122
123
123
124
124
137
1. Hoàng Đức Cự, (1998), Sinh học đại cương (Sinh học phân tử - tế
bào) tập I. nxb. ĐHQG Hà Nội.
2. Nguyễn Đình Giậu, (2000), Sinh học đại cương, Sinh học thực vật,
Sinh học động vật. NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.
3. Nguyễn Như Hiền (2000), Tế bào học, NXB ĐHQG Hà Nội
4. Trịnh Hữu Hằng, (19980, Sinh học cơ thể động vật. Sinh học đại
cương II, NXB Đại học Quốc gia.
5. Phạm Thành Hổ, (2004) Sinh học đại cương, NXB Đại học Quốc gia
TP. HCM.
6. Nguyễn Chi Mai, (2000), Sinh học đại cương, Sinh học cơ thể. Tủ
sách Đại học Khoa Học Tự Nhiên TP. HCM.
7. Bùi Trang Việt, (2003). Sinh học tế bào, NXB Đại học Quốc gia TP.
HCM.
Tài liệu tiếng Anh
8. Bruce Alberts, at all (1983), Molecular biology of the cell, New York
and London.
9. Harvay Lodish, at all (1999), Molecular cell biology, Media Connectid.
125