Bước tới nội dung

Na Uy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Norway)
Vương quốc Na Uy
Tên bản ngữ
Huy hiệu Na Uy
Huy hiệu

Tiêu ngữAlt for Norgea

Quốc ca

Hoàng caKongesangen
Bài ca của Quốc vương
Vị trí của Vương quốc Na Uy (xanh lá)

ở châu Âu (xanh lá và xám đậm)

Vị trí Vương quốc Na Uy và các lãnh thổ hải ngoại toàn vẹn và phần phụ thuộc: Svalbard, Jan Mayen, Đảo Bouvet, Đảo Peter I và Queen Maud Land
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Oslo
59°56′B 10°41′Đ / 59,933°B 10,683°Đ / 59.933; 10.683
Ngôn ngữ chính thức
  • tiếng Na Uy
  • tiếng Sámi[1]

Tiếng địa phương: tiếng Kven

Tiếng dân tộc thiểu số: tiếng Scandoromani, tiếng Digan[2]
Hệ chữ viếtLatinh
Sắc tộc

Tình trạng bản địa:

Tình trạng người thiểu số:[5]

Tôn giáo chính
(2019)
75,6% Kitô giáo
—68,7% Church của Na Uy[a]
—6,9% Kitô hữu khác
20,2% Không tôn giáo
3,4% Hồi giáo
0,8% khác[7][8]
Tên dân cưngười Na Uy
Chính trị
Chính phủQuân chủ lập hiến nghị viện đơn nhất
Harald V
Jonas Gahr Støre
Máud Ghảhkhani (Ap) (2021–)
Toril Marie Øie
Lập phápNghị viện Na Uy
Lịch sử
Lịch sử
872
• Vương quốc Na Uy cũ (thời kỳ mở rộng nhất)
1263
1397
1524
25 tháng 2, 1814
17 tháng 5, 1814
4 tháng 11, 1814
7 tháng 6, 1905
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
385,207 km2[11] (hạng 61b)
148,718 mi2
• Mặt nước (%)
5,32 (theo 2015)[12]
Dân số 
• Ước lượng 2024
Tăng 5.550.203[10] (hạng 118)
14,4/km2 (hạng 213)
37,32/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2020
• Tổng số
350 tỷ $[13] (hạng 49)
64.856 $[13] (hạng 6)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2020
• Tổng số
366 tỷ $[13] (hạng 33)
• Bình quân đầu người
67.987 $[13] (hạng 4)
Đơn vị tiền tệKrone Na Uy (NOK)
Thông tin khác
Gini? (2018)24,8[14]
thấp
HDI? (2022)0,966[15]
rất cao · hạng 2
Múi giờUTC+1 (CET)
• Mùa hè (DST)
UTC+2 (CEST)
Cách ghi ngày thángdd.mm.yyyy
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+47
Mã ISO 3166NO
Tên miền Internet.no
  1. Không có tiêu ngữ chính thức, nhưng lời tuyên thệ từ 1814 của Hội đồng lập hiến Na Uy có thể được coi là gần với tiêu ngữ nhất (không chính thức):
    Enige og tro inntil Dovre faller (tiếng Bokmål)
    Einige og tru inntil Dovre fell (tiếng Nynorsk)
    "Đoàn kết và trung thành cho đến khi núi Dovre sụp đổ"
  2. Không bao gồm Svalbard và Jan Mayen. (cùng với các lãnh thổ, nó là quốc gia lớn thứ 67 với diện tích 385.207[11] km2)
  3. Tỉ lệ % này tính cho đất liền, Svalbard và Jan Mayen. Phần băng không được tính là đất.

Na Uy (Bokmål: Norge; Nynorsk: Noreg), tên chính thức là Vương quốc Na Uy, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây và cực bắc của Bán đảo Scandinavia; bao gồm đảo Jan Mayen và quần đảo Svalbard là 2 lãnh thổ nằm rất xa về phía Bắc Cực; bao gồm lãnh thổ phụ thuộc: đảo Bouvet nằm ở khu vực Subantartic. Na Uy cũng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ với hai hòn đảo Peter IQueen Maud Land tại châu Nam Cực.

Na Uy có tổng diện tích là 385.207 kilômét vuông (148.729 dặm vuông Anh)[11] và dân số là 5,385,300 (2020).[16] Đất nước này có chung biên giới phía đông với Thụy Điển (có chiều dài1.619 km hoặc 1.006  mi). Na Uy giáp Phần LanNga ở phía đông bắc. Eo biển Skagerrak ở phía nam nối Na Uy với Đan Mạch. Na Uy có đường bờ biển dài, hướng ra Bắc Đại Tây Dươngbiển Barents. Chính đại dương khiến Na Uy có khí hậu vùng đất thấp êm dịu, bớt lạnh hơn nhiều so với các quốc gia ở vùng vĩ độ bắc tương tự. Ngay cả vào những đêm vùng cực, nhiệt độ thông thường vẫn trên mức đóng băng. Đại dương cũng mang lại lượng mưa và lượng tuyết rơi lớn ở nhiều vùng.

Quốc vương Na Uy hiện tại là Harald V thuộc Vương tộc Glücksburg. Thủ tướng đương nhiệm là ông Jonas Gahr Støre (Ap) (từ năm 2021). Na Uy là một quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước đơn nhất chế độ quân chủ lập hiến; Na Uy phân chia quyền lực quốc gia cho Quốc hội, Hội đồng nội các và Tòa án tối cao theo đúng Hiến pháp năm 1814. Vương quốc Na Uy được thành lập vào năm 872 với sự sáp nhập của hàng loạt các tiểu quốc và tồn tại như thế trong suốt hơn 1 100 năm. Từ năm 1537 đến 1814, Na Uy là một phần của Vương quốc Đan Mạch-Na Uy; từ năm 1814 đến 1905 thì nằm trong Vương quốc Liên hiệp Thụy Điển và Na Uy. Na Uy là nước trung lập trong Thế chiến thứ nhất, đến tháng 4 năm 1940 thì bị xâm chiếm bởi Đức Quốc xã và đến tận cuối Thế chiến thứ hai thì Na Uy mới giành được độc lập.

Na Uy phân chia hệ thống chính trị và quản lý làm 2 cấp độ: Hạt và Khu tự quản. Nhóm người thiểu số Sámi tự trị trong vùng đất của họ theo Đạo luật Finnmark và Quốc hội Sámi. Na Uy duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả Liên minh châu ÂuHoa Kỳ. Na Uy là thành viên sáng lập của Liên hợp quốc, NATO, Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, Hội đồng châu Âu, Hiệp ước châu Nam CựcHội đồng Bắc Âu; là thành viên của Khu vực kinh tế châu Âu, WTO, OECD cũng như Khu vực Schengen. Tiếng Na Uy có rất nhiều điểm tương đồng với tiếng Đan Mạch và Thụy Điển.

Na Uy đi theo mô hình phúc lợi Bắc Âu với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân và an sinh xã hội toàn diện, bắt nguồn từ lý tưởng của Chủ nghĩa quân bình.[17] Na Uy nắm giữ vị trí quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, với lượng dự trữ tài nguyên dồi dào gồm có dầu mỏ, khí tự nhiên, khoáng sản, gỗ, thủy sản và nước ngọt. Ngành dầu khí chiếm đến khoảng 1/4 tổng sản phẩm quốc nội (GDP).[18] Nếu tính trên bình quân đầu người, Na Uy là chính là nước sản xuất dầu mỏ và khí tự nhiên lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Đông.[19][20]

Mức thu nhập bình quân đầu người của Na Uy cao thứ tư thế giới theo danh sách của tổ chức Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ thế giới IMF.[21] Còn theo danh sách của CIA (ước tính 2015) Na Uy xếp thứ 11.[22] Quỹ đầu tư quốc gia của Na Uy cũng là lớn nhất thế giới, với giá trị 1 nghìn tỷ USD;[23] chỉ số Phát triển Con người HDI cũng xếp số 1 kể từ năm 2009; xếp thứ nhất trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2017 và hiện tại đang đứng đầu về Chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn của OECD, chỉ số Liêm chính công, Chỉ số Dân chủ.[24] Na Uy cũng là một trong những nước có tỷ lệ tội phạm thấp nhất trên thế giới.[25]

Nguồn gốc tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên tiếng Việt của nước này có gốc từ tên tiếng Trung. Tiếng Trung phiên âm từ "Nor-way" thành 挪威 ("Nuó wēi"). 挪威 có âm Hán Việt là "Na Uy".

Na Uy có 2 tên gọi chính thức là Norge (tiếng Bokmål) và Noreg (tiếng Nynorsk). Tên trong tiếng Anh là Norway bắt nguồn từ Norþweg trong tiếng Anh cổ với ý nghĩa "con đường đến phương bắc". Người Anglo-Saxon dùng từ này vào năm 880 để gọi tên đường bờ biển giáp Đại Tây Dương của Na Uy, họ gọi vương quốc Na Uy khi đó là Norðmanna land. Tên gọi của ngôn ngữ Na Uy cũng được cho rằng bắt nguồn tương tự như vậy.

Mở đầu bản ghi chép của Ohthere viết: "Ohthere nói với chúa tể Ælfrede Đại đế rằng ông ta sống ở tận cực bắc, xa hơn tất cả những người phương Bắc..."

Có nhiều tranh cãi về ý nghĩa tên gọi bản địa của Na Uy. Theo quan điểm chủ đạo truyền thống, thành tố đầu tiên là norðr - cùng nguồn gốc với từ north, vì thế cái tên đầy đủ sẽ là Norðr vegr: "con đường hướng về phương bắc", chính là nhắc đến tuyến đường biển dọc theo vùng duyên hải Na Uy. Tương tự với từ Suðrvegar: "con đường về phía nam" nhắc đến nước Đức, Austrvegr: "con đường về phía đông" nhắc đến biển Baltic. Trong phần dịch của Orosius dùng từ Norðweg, ký tự ð sau dần bị biến mất trong tiếng Anh.

Một giả thuyết khác lại cho rằng thành tố đầu tiên là từ Nór, nghĩa là "hẹp" (Anh cổ: Nearu), ám chỉ tuyến hàng hải đi qua các quần đảo bên trong vùng đất ("con đường hẹp") phía bắc châu Âu. Sự biến đổi nghĩa của từ thành "phía bắc" trong tiếng Anh và tiếng Latin được coi là 1 sự nhầm lẫn nguồn gốc từ (folk etymology). Quan điểm này bắt nguồn từ nhà văn tự học Niels Halvorsen Trønnes vào năm 1847; cho đến năm 2016 lại được tán thành bởi nhà hoạt động Klaus Johan Myrvoll và giáo sư văn tự học Michael Schulte. Chữ Nore ngày nay vẫn còn được xuất hiện và sử dụng trong tên vài địa điểm, ví dụ làng Nore hay hồ Norefjorden. Tuy nhiên lý thuyết này vẫn còn nhiều điểm chưa được làm sáng tỏ. Từ norðr và tính từ norrǿnn vẫn là những từ sớm nhất mà tiếng Latin và Anglo-Saxon ghi nhận được.

Vào cuối thế kỷ thứ 9, Ohthere of Hålogaland tới thăm Vua Alfred Đại Đế đã nhắc đến NorðwegrNorðmanna land. Ohthere nói rằng người Norðmanna sống dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, người Đan Mạch sống xung quanh eo Skagerrak hay Kattegat, trong khi người Sámi (người "Vây cá") du cư trong vùng nội địa rộng lớn. Ohthere nói ông là "Người sống xa xôi nhất ở phương Bắc" (the most northern of all Norwegians), có thể là tận đảo Senja hoặc gần với Tromsø. Ngoài ra, còn có vùng đất hoang vu rộng lớn phía nam của Na Uy được gọi là vùng đất của người Thụy Điển: "Svealand".

Trong các ngôn ngữ khác, Na Uy có cách viết: Norga (Bắc Sami); Vuodna (Lule Sami); Nöörje (Nam Sami).

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Tranh khắc đá tại Alta

Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc Đức)[cần dẫn nguồn], hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga) [cần dẫn nguồn]. Từ đó họ định cư dọc bờ biển.

thế kỷ 9, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 của Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.

Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ XI) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của Anh Quốc và Ireland và tìm cách định cư tại L'Anse aux MeadowsNewfoundland, Canada ("Vinland" của sử thi của Erik Thorvaldsson). Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland[26] và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của CorkDublin[cần dẫn nguồn] sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland. Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995–1000) và St. Olav (1015–1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ IX và thứ X.

Năm 1349, nạn dịch Tử thần Đen đã giết hại khoảng 40% tới 50% dân số Na Uy,[27] khiến nước này suy sụp cả về xã hội và kinh tế. Trong cuộc suy thoái này, có lẽ Triều đại Fairhair đã kết thúc năm 1387. Bề ngoài có vẻ chính trị hoàng gia ở thời điểm ấy đã dẫn tới nhiều hiệp đoàn cá nhân giữa các quốc gia Bắc Âu, cuối cùng dẫn tới việc ngôi vua Na Uy, Đan Mạch, và Thuỵ Điển rơi vào tay Nữ hoàng Margaret I của Đan Mạch khi nước này gia nhập Liên minh Kalmar với Đan Mạch và Thuỵ Điển. Dù Thuỵ Điển cuối cùng đã rút lui khỏi liên minh năm 1523, Na Uy tiếp tục ở lại với Đan Mạch trong 434 năm cho tới năm 1814. Trong chủ nghĩa lãng mạn quốc gia ở thế kỷ XIX, giai đoạn được một số người gọi là "Đêm trường 400 Năm", bởi tất cả hoàng gia, giới học giả và quyền lực hành chính ở các vương quốc được tập trung tại Copenhagen, Đan Mạch. Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy sụp của Na Uy trong giai đoạn này. Với sự xuất hiện của Đạo Tin Lành năm 1537, Tổng giám mục tại Trondheim bị giải tán, và các nguồn thu của nhà thờ được phân chia cho triều đình ở Copenhagen tại Đan Mạch. Na Uy mất nguồn hành hương ổn định tới thánh tích của St. Olav tại hầm mộ Nidaros, và cùng với đó, là đa phần nguồn liên hệ với đời sống văn hoá và kinh tế với phần còn lại của châu Âu. Ngoài ra, trong thế kỷ XVII Na Uy cũng bị mất một phần diện tích lãnh thổ khi mất các tỉnh Båhuslen, Jemtland, và Herjedalen cho Thuỵ Điển, sau những cuộc chiến tranh giữa Đan Mạch-Na Uy và Thuỵ Điển.

Hội đồng hiến pháp năm 1814, tranh vẽ của Oscar Wergeland.

Sau khi Đan Mạch-Na Uy bị Anh Quốc tấn công, họ tham gia vào liên minh với Napoleon, và vào năm 1814 thấy mình đang ở bên thua cuộc trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon và trong tình thế nguy ngập với nạn đói năm 1812. Vị vua Oldenburg của Đan Mạch Na Uy buộc phải nhường Na Uy cho Thuỵ Điển, trong khi các tỉnh cũ của Na Uy là Iceland, Greenland và Quần đảo Faroe vẫn tiếp tục thuộc về triều đình Đan Mạch. Na Uy lợi dụng cơ hội này để tuyên bố độc lập, chấp nhận một hiến pháp dựa trên mô hình hiến pháp MỹPháp, và bầu vị thái tử người Đan Mạch Christian Fredrik lên làm vua ngày 17 tháng 5 năm 1814. Tuy nhiên, quân đội Thuỵ Điển đã buộc Na Uy phải gia nhập một liên minh cá nhân với Thuỵ Điển, lập ra triều đại Bernadotte nắm quyền cai trị Na Uy. Theo thoả thuận này, Na Uy giữ hiến pháp tự do và các định chế độc lập của mình, ngoại trừ quan hệ đối ngoại. Xem thêm Na Uy năm 1814.

Giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của phong trào văn hoá Chủ nghĩa quốc gia lãng mạn Na Uy, khi người Na Uy tìm cách định nghĩa và thể hiện một bản sắc quốc gia riêng biệt. Phong trào này liên quan tới mọi nhánh văn hoá, gồm cả văn học (Henrik Wergeland, Bjørnstjerne Bjørnson, Peter Christen Asbjørnsen, Jørgen Moe, Henrik Ibsen), hội họa (Hans Gude, Adolph Tidemand), âm nhạc (Edvard Grieg), và thậm chí trong cả chính sách ngôn ngữ, những nỗ lực nhằm xác định một ngôn ngữ viết bản xứ cho Na Uy đã dẫn tới các hình thức ngôn ngữ viết chính thức hiện nay cho Tiếng Na Uy: BokmålNynorsk.

Christian Michelsen, một ông trùm ngành tàu bè và là một chính khách, đã làm Thủ tướng Na Uy từ năm 1905 tới năm 1907. Michelsen giữ vai trò quan trọng trong cuộc ly khai hoà bình của Na Uy với Thuỵ Điển ngày 7 tháng 7 năm 1905. Sự bất mãn ngày càng tăng của Na Uy về liên minh với Thuỵ Điển hồi cuối thế kỷ XIX cộng với chủ nghĩa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự tan rã của liên minh. Sau một cuộc trưng cầu dân ý xác định sự ưa chuộng của người dân với chế độ quân chủ hơn một nền cộng hoà, chính phủ Na Uy đã đề xuất trao ngôi báu Na Uy cho Hoàng tử Đan Mạch Carl và Nghị viện đã nhất trí bầu ông. Ông lấy tên Haakon VII, theo các vị vua khi Na Uy độc lập thời Trung Cổ. Năm 1898, tất cả mọi nam giới đều được trao quyền bầu cử, sau đó phụ nữ năm 1913.

Trong Thế Chiến I, Na Uy là một nước trung lập. Na Uy cũng tìm cách tuyên bố trung lập trong Thế Chiến II, nhưng đã bị các lực lượng Đức xâm lược Na Uy ngày 9 tháng 4 năm 1940. Na Uy không hề chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công bất ngờ như vậy của Đức, nhưng các cuộc kháng cự quân sự vẫn diễn ra trong hai tháng, lâu hơn bất kỳ một quốc gia nào khác bị người Đức xâm lược, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong Chiến dịch Na Uy, Kriegsmarine mất nhiều tàu chiến kể cả chiếc tuần dương hạm Blücher. Những trận chiến VinjesvingenHegra đã trở thành những cứ điểm kháng cự cuối cùng của người Na Uy ở phía nam nước này vào tháng 5, trong khi các lực lượng vũ trang ở phía bắc tung ra các cuộc tấn công vào các lực lượng Đức trong Các trận đánh Narvik, cho tới khi họ buộc phải đầu hàng ngày 10 tháng 6 sau khi mất sự hỗ trợ của Đồng Minh đi cùng sự thất trận của nước Pháp. Vua Haakon và chính phủ Na Uy tiếp tục cuộc chiến trong hoàn cảnh tị nạn tại Rotherhithe, Luân Đôn. Vào ngày cuộc xâm lược diễn ra, vị đồng lãnh đạo của Đảng Quốc gia-Xã hội nhỏ Nasjonal SamlingVidkun Quisling — đã tìm cách lên nắm quyền lực, nhưng đã bị quân chiếm đóng Đức gạt ra rìa. Quyền lực thực sự nằm trong tay chính quyền chiếm đóng Đức, Reichskommissar Josef Terboven. Quisling, với tư cách bộ trưởng tổng thống, sau này đã thành lập một chính phủ liên minh dưới sự quản lý của Đức. Các cơ sở tại Na Uy đã chế tạo nước nặng, một nguyên liệu chủ chốt chế tạo vũ khí hạt nhân, và cuối cùng đã bị người Đức bỏ lại sau nhiều nỗ lực phá huỷ cơ sở Vemork của người Na Uy, người Anh và người Mỹ. Trong những năm chiếm đóng của Phát xít, người Na Uy đã xây dựng một phong trào kháng chiến mạnh chống lại các lực lượng chiếm đóng Đức bằng cả chiến tranh vũ trang và bất tuân dân sự. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hơn với Đồng Minh, là vai trò của hải quân thương mại Na Uy. Ở thời điểm xảy ra cuộc xâm lược, Na Uy có hạm đội tàu biển thương mại đứng hàng thứ tư thế giới (cũng như có tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất). Công ty tàu biển Na Uy Nortraship đã nằm dưới sự điều khiển của Đồng Minh trong suốt cuộc chiến và tham gia vào mọi chiến dịch từ việc sơ tán Dunkirk tới cuộc đổ bộ vào Normandy.

Sau cuộc chiến, những thành viên đảng Dân chủ Xã hội lên nắm quyền và lãnh đạo quốc gia trong hầu hết thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Na Uy đã gia nhập NATO năm 1949, và trở thành một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Hai cuộc trưng cầu dân ý nhằm gia nhập Liên minh châu Âu (được gọi là Cộng đồng châu Âu năm 1972) đã thất bại với tỷ số mong manh năm 1972 và 1994. Những nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas lớn đã được khám phá trong thập niên 1960, dẫn tới sự bùng nổ kinh tế sau đó.

Địa lý, khí hậu và môi trường

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình vệ tinh lục địa Na Uy vào mùa đông

Na Uy gồm phần phía tây của ScandinaviaBắc Âu. Bờ biển lởm chởm, bị chia cắt bởi nhiều vịnh hẹp (fjord) và khoảng 50.000 hòn đảo, trải dài hơn 2.500 km. Na Uy có 2.542 km đường biên giới trên bộ chung với Thuỵ Điển, Phần Lan, và Nga ở phía đông. Từ phía tây tới phía nam, Na Uy giáp với Biển Na Uy, Biển Bắc, và Skagerak. Biển Barents nằm ở các bờ biển phía bắc Na Uy..

Với diện tích 385.207 km² (gồm cả Jan Mayen, Svalbard), Na Uy hơi lớn hơn Đức, nhưng đa phần lãnh thổ là núi non hay vùng đất cao, với sự đa dạng lớn về địa hình tự nhiên do các dòng sông băng thời tiền sử gây nên. Đặc điểm đáng chú ý nhất là các vịnh hẹp: Những rãnh sâu cắt vào đất liền của biển sau sự chấm dứt của Thời kỳ băng hà, vịnh dài nhất là Sognefjorden. Na Uy cũng có nhiều sông băng và thác nước.

Phong cảnh đặc trưng phía tây Na Uy với làng (Geiranger)

Đất đai chủ yếu gồm đá granite cứng và đá gneiss nhưng, đá acđoa, sa thạcđá vôi cũng thường thấy, và ở những khu vực có độ cao thấp nhất thường có trầm tích biển. Vì Gulf Stream những cơn gió tây, Na Uy có nhiệt độ ấm và lượng mưa lớn hơn ở các vùng có vĩ độ bắc như vậy, đặc biệt dọc theo bờ biển. Lục địa có bốn mùa riêng biệt, với mùa đông lạnh và ít mưa hơn trong đất liền. Vùng cực bắc chủ yếu có khí hậu cận Bắc Cực biển, trong khi Svalbard có khí hậu tundra Bắc Cực.

Có sự khác biệt theo mùa lớn trong ngày. Tại các vùng phía bắc Vòng Bắc Cực, mặt trời mùa hè có thể không bao giờ xuống dưới đường chân trời, vì thế Na Uy được miêu tả là "Vùng đất của Mặt trời lúc nửa đêm." Trong mùa hè, người dân ở phía nam Vòng Bắc Cực có ánh sáng mặt trời trong vòng gần 20 giờ trong ngày.

Các thành phố chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Oslo là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Na Uy hiện nay. Nằm ở phía Đông Nam Na Uy, Oslo trải dài trên nhiều triền núi và quanh các hồ. Đây cũng là một trong những thành phố có giá cả sinh hoạt đắt nhất thế giới.

Thành phố lớn thứ hai của Na Uy là Bergen. Đây là cảng biển lớn nhất vương quốc Na Uy và cũng là trung tâm công nghiệp dầu khí quan trọng hàng đầu quốc gia này.

Trondheim là thành phố lớn thứ ba và là cố đô của Na Uy. Thành phố này từng là kinh đô cả về mặt chính trị, kinh tế lẫn tôn giáo của xứ sở nghìn vịnh này. Hiện nay, Trondheim còn được biết đến là trung tâm giáo dục, khoa học kỹ thuật của Na Uy với rất nhiều trường đại học đóng tại đây. Thành phố Trondheim còn là nơi tổ chức Festival Sinh viên Quốc tế lớn nhất thế giới, cứ hai năm lại được tổ chức một lần. Lần gần nhất là tháng 2 năm 2007.

Chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Vua Harald VNữ hoàng Sonja của Na Uy (trị vì từ năm 1991) vào năm 2012.
Storting là Quốc hội của Na Uy.
Thủ tướng Na Uy Erna Solberg (từ năm 2013) và Tổng thống Mỹ Donald Trump năm 2018

Na Uy được công nhận là một trong những nền dân chủ phát triển nhất trên thế giới. Vào năm 1814, đã có 45% nam giới (từ 25 tuổi trở lên) ở Na Uy có quyền bỏ phiếu, trong khi tỉ lệ tương tự của Vương quốc Anh chỉ là 20% vào năm 1832, Thụy Điển là 5% vào năm 1866 và Bỉ là 1,15% vào năm 1840. Từ năm 2010, Na Uy đã được xếp hạng là quốc gia dân chủ nhất thế giới theo Chỉ số Dân chủ.[28][29][30]

Theo Hiến pháp Na Uy, thông qua vào ngày 17 tháng 5 năm 1814 [31] được lấy cảm hứng từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Cách mạng Pháp năm 1776 và 1789, Na Uy là một nhà nước quân chủ lập hiến đơn nhất với một hệ thống chính phủ nghị viện, trong đó Quốc vương Na Uy là nguyên thủ quốc giathủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quyền lực được phân tách giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy chính quyền, theo quy định của Hiến pháp, đóng vai trò là văn bản pháp lý tối cao của đất nước.

Quốc vương về mặt danh nghĩa là chủ thể giữ quyền hành pháp. Nhưng kể từ khi hệ thống chính phủ nghị viện ra đời, nhiệm vụ của quốc vương chủ yếu mang tính chất đại diện và nghi lễ [32] chẳng hạn như bổ nhiệm chính thức và bãi nhiệm Thủ tướng và các bộ trưởng khác trong chính phủ hành pháp. Ngoài ra, Quốc vương cũng là Tổng tư lệnh của Lực lượng Vũ trang Na Uy, giữ chức vụ ngoại giao chính thức ở nước ngoài và là biểu tượng cho sự thống nhất quốc gia. Harald V của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg lên ngôi Vua Na Uy năm 1991, hiện đang là Quốc vương nước này.[33] Haakon Magnus của Na Uy, là người thừa kế hợp pháp và chính đáng của ngai vàng và Vương quốc.

Trên thực tế, Thủ tướng là người thực hiện các quyền hành pháp. Về mặt hiến pháp, quyền lập pháp được trao cho cả chính phủ và Quốc hội Na Uy, nhưng trên thực tế thì Quốc hội chính là cơ quan lập pháp tối cao.[34] Na Uy có cấu trúc cơ bản là một nền dân chủ đại diện. Quốc hội có thể thông qua một đạo luật với đa số đơn giản trong tổng số 169 đại biểu, được bầu trên cơ sở đại diện tỷ lệ từ 19 khu vực bầu cử trên cả nước cho một nhiệm kỳ bốn năm.

Một đảng phải giành được số phiếu bầu chiếm 4% tổng số phiếu trở lên trong cuộc bầu cử quốc gia thì mới có thể giành được ghế trong Quốc hội.[35] Có tổng cộng 169 thành viên trong Quốc hội, được bầu từ 19 khu vuc bầu cử theo phương thức phổ thông đầu phiếu, phục vụ trong một nhiệm kỳ bốn năm.

Quốc hội Na Uy, được gọi là Storting (có nghĩa là Đại hội đồng), là cơ quan lập pháp tối cao của quốc gia. Quốc hội có thể luận tội các thành viên của chính phủ nếu hành vi của họ được tuyên bố là vi phạm hiến pháp. Nếu một nghi phạm bị tuyên bố là có tội, Quốc hội có quyền loại bỏ người này khỏi chính phủ. Sau cuộc bầu cử năm 2017, tổng cộng chín đảng có đại diện trong Quốc hội: Đảng Lao động (49 đại diện), Đảng Bảo thủ (45), Đảng Tiến bộ (27), Đảng Trung tâm (19), Đảng Cánh tả Xã hội (11), Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (8), Đảng Tự do (8), Đảng Xanh (1) và Đảng Đỏ (1).

Vị trí thủ tướng, người đứng đầu chính phủ Na Uy, được trao cho một thành viên của Quốc hội, người nhận được sự tín nhiệm của đa số thành viên trong Quốc hội, thông thường thì thủ tướng là lãnh đạo của đảng chính trị lớn nhất hoặc thủ lĩnh của liên minh đảng phái giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc gia. Một đảng duy nhất thường không có đủ ghế trong Quốc hội để tự mình thành lập chính phủ. Na Uy thường được điều hành bởi các chính phủ thiểu số, được hình thành từ một liên minh đảng phái có chung tư tưởng chính trị.

Thủ tướng là người chỉ định các thành viên của nội các, theo truyền thống thì các thành viên của nội các chính là các thành viên của cùng một đảng chính trị với thủ tướng hoặc là thành viên của một đảng nằm trong liên minh thành lập chính phủ. Thủ tướng thực thi quyền lực của mình theo Hiến pháp.[36] Trước đây, Thủ tướng phải có hơn một nửa số thành viên trong nội các của mình là thành viên của Giáo hội Na Uy, nghĩa là ít nhất mười trong số 19 bộ trưởng của Na Uy phải là thành viên của Giáo hội. Quy định này đã được bãi bỏ vào năm 2012.

Thông qua Hội đồng Nhà nước, một Viện cơ mật do quốc vương chủ trì, thủ tướng và nội các họp tại Cung điện Hoàng gia và chính thức hỏi ý kiến Quốc vương. Tất cả các dự luật của chính phủ cần sự chấp thuận chính thức của Quốc vương trước và sau khi trình bày với Quốc hội thì mới có thể thành luật. Tuy vậy việc ban hành luật đều đã được chính phủ và quốc hội nhất trí với nhau từ trước, Viện cơ mật chỉ mang tính chất tượng trưng thể hiện quyền lực của nhà vua mà thôi.[33]

Cung điện Hoàng gia Na Uy tại Oslo.

Cơ quan lập pháp và hành pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước đây, Quốc hội Na Uy (Storting) gồm 2 viện: Lagting (tương đương Thượng viện) và Odelsting (tương đương Hạ viện). Kể từ năm 2009, Quốc hội Na Uy bỏ việc phân chia Quốc hội thành Thương viện và Hạ viện và theo chế độ một viện (unicameral) với 169 nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm.

Chế độ bầu cử của Na Uy dựa trên nguyên tắc bỏ phiếu kín, bầu trực tiếp và theo tỷ lệ. Cả nước có 19 đơn vị bầu cử. Những người chưa có quốc tịch Na Uy thì được quyền tham gia bầu cử ở địa phương, nếu đến ngày bầu cử họ đã sống liên tục ở Na Uy được 3 năm và đáp ứng các điều kiện chung về bầu cử.

Các thành viên của Storting được bầu trực tiếp theo cơ chế đại diện tỷ lệ tại mười chín khu vực bầu cử trên cả nước trong một hệ thống đa đảng quốc gia.[37] Trong lịch sử, cả Đảng Lao động (thiên tả) và Đảng Bảo thủ (thiên hữu) đều đóng vai trò quan trọng đối với nền chính trị Na Uy. Vào đầu thế kỷ 21, Đảng Lao động đã nắm quyền sau cuộc bầu cử quốc gia năm 2005, trong một liên minh các đảng phái cánh tả được gọi là Liên minh Xanh- đỏ với hai đảng khác là Đảng Cánh tả Xã hội và Đảng Trung tâm.[38]

Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2009, cả hai đảng cánh hữu lớn nhất là Đảng Bảo thủ và Đảng Tiến bộ đã giành được nhiều ghế trong Quốc hội, nhưng vẫn không đủ để lật đổ liên minh Xanh-đỏ cầm quyền. Jens Stoltenberg, lãnh đạo đảng Lao động, tiếp tục dành đủ số phiếu cần thiết thông qua liên minh đa đảng của mình để tiếp tục làm Thủ tướng cho đến năm 2013.[39]

Trong cuộc bầu cử quốc gia vào tháng 9 năm 2013, cử tri Na Uy đã chấm dứt tám năm cầm quyền của Đảng Lao động. Hai đảng cánh hữu là Đảng Bảo thủ và Đảng Tiến bộ đã giành được chiến thắng dựa trên lời hứa về việc cắt giảm thuế, chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và giáo dục, dịch vụ tốt hơn và quy định chặt chẽ hơn về nhập cư, hai đảng đã liên minh với nhau để thành lập nên một chính phủ cầm quyền. Erna Solberg trở thành thủ tướng, nữ thủ tướng thứ hai sau Brundtland và thủ tướng bảo thủ đầu tiên kể từ Syse. Solberg nói rằng chiến thắng của bà là "một chiến thắng bầu cử lịch sử của các đảng phái cánh hữu".[40]

Hệ thống tư pháp và thực thi pháp luật

[sửa | sửa mã nguồn]

Na Uy sử dụng hệ thống Dân luật nơi luật pháp được tạo ra và sửa đổi bởi Quốc hội và được điều chỉnh thông qua các cơ quan tư pháp. Nó bao gồm Tòa án tối cao gồm 20 thẩm phán thường trực và một Chánh án, các tòa phúc thẩm, tòa án cấp thành phố và cấp quận, cùng với các hội đồng hòa giải.[41] Nhánh tư pháp độc lập với các nhánh hành pháp và lập pháp. Trong khi Thủ tướng là người bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án Tối cao, việc đề cử phải được Quốc hội phê chuẩn và phải chính thức được Quốc vương xác nhận. Thẩm phán của các tòa án cấp thấp hơn thường được Quốc vương chính thức bổ nhiệm theo lời khuyên của Thủ tướng.

Nhiệm vụ của Tòa án tối cao là điều chỉnh hệ thống tư pháp Na Uy, giải thích Hiến pháp và thực thi luật pháp được Quốc hội thông qua. Trong chức năng đánh giá tư pháp của mình, Tòa án tối cao giám sát các nhánh lập pháp và hành pháp để đảm bảo rằng hai nhánh này tuân thủ các quy định của pháp luật ban hành.[41]

Luật pháp được thi hành tại Na Uy bởi Cơ quan cảnh sát Na Uy. Đó là một cơ quan cảnh sát quốc gia thống nhất gồm 27 cơ quan cảnh sát cấp quận và một số cơ quan chuyên môn, chẳng hạn như Cơ quan điều tra và truy tố tội phạm kinh tế và môi trường, được gọi là Økokrim; và Cục điều tra tội phạm quốc gia, được gọi là Kripos, đứng đầu mỗi cơ quan là một cảnh sát trưởng. Sở cảnh sát được lãnh đạo bởi Tổng cục cảnh sát quốc gia, báo cáo cho Bộ Tư pháp và Cảnh sát. Tổng cục cảnh sát được lãnh đạo bởi một ủy viên cảnh sát quốc gia. Ngoại lệ duy nhất là Cơ quan An ninh Cảnh sát Na Uy.

Na Uy đã bãi bỏ án tử hình cho hầu hết các loại tội phạm thông thường vào năm 1902. Cơ quan lập pháp Na Uy đã bãi bỏ án tử hình đối với tội phản quốc trong chiến tranh và hành vi gây ra tội ác chiến tranh vào năm 1979. Trong Chỉ số Tự do báo chí toàn cầu năm 2007, Na Uy được xếp ở vị trí đầu tiên (cùng với Iceland) trong tổng số 169 quốc gia.[42]

Nhìn chung, khuôn khổ pháp lý và thể chế ở Na Uy được đặc trưng bởi mức độ minh bạch, trách nhiệm và tính toàn vẹn cao, và sự xuất hiện của tham nhũng là rất ít.[43]

Các nhà tù Na Uy nổi tiếng bởi sự nhân đạo, nhấn mạnh vào việc cải tạo phạm nhân hơn là trừng phạt họ. Ở mức 20%, tỷ lệ tái kết án của Na Uy thuộc loại thấp nhất thế giới.[44]

Quan hệ ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]

Về đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khác với nước láng giềng Thụy Điển và một vài quốc gia khác, Na Uy điều chỉnh chính sách đối ngoại từ việc "trung lập hạn chế" sang liên minh quân sự và gia nhập NATO (1949) để có sự đảm bảo của MỹTây Âu cho an ninh và quốc phòng, vì Na Uy luôn luôn lo ngại ảnh hưởng của Liên Xô (nay là Nga) trong Chiến tranh Lạnh. Na Uy tham gia lực lượng phản ứng nhanh của NATO ở Trung Đông, ủng hộ Mỹ trong hầu hết các vấn đề quốc tế. Cùng với các nước Bắc Âu khác, Na Uy chủ trương cải tổ Liên Hợp Quốc, trong đó có Hội đồng bảo an nhằm đảm bảo dân chủ và quyền bình đẳng giữa các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Na Uy đang thực hiện kế hoạch điều chỉnh quan hệ đối ngoại, tập trung nguồn lực nhiều hơn trong quan hệ với các nước mới nổi (BRICS) gồm có Brasil, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nam Phi nhằm tận dụng nguồn lực phát triển của các nước này.

Na Uy duy trì các đại sứ quán ở 82 quốc gia.[45] 60 quốc gia duy trì một đại sứ quán ở Na Uy, tất cả đều nằm ở thủ đô Oslo.

Na Uy là thành viên sáng lập của Liên Hợp quốc (LHQ), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Hội đồng châu Âu và Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (EFTA).

Na Uy đã tham gia vào quá trình đàm phán Hiệp định Oslo, một nỗ lực không thành công để giải quyết cuộc xung đột giữa Palestine và Israel.

Quan hệ với Liên minh châu Âu

[sửa | sửa mã nguồn]

Na Uy đã đệ đơn xin gia nhập Liên minh châu Âu (EU) và các tổ chức tiền thân của nó vào các năm 1962, 1967 và 1992. Trong khi Đan Mạch, Thụy ĐiểnPhần Lan đều đã có được tư cách thành viên EU, cử tri Na Uy đã từ chối việc gia nhập EU trong các cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1972 và 1994.

Sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1994, Na Uy duy trì tư cách thành viên của mình trong Khu vực kinh tế châu Âu (EEA), một thỏa thuận cho phép quốc gia tiếp cận thị trường đơn nhất của Liên minh [46]

Với châu Á nói chung

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1996, Quốc hội Na Uy thông qua "Chiến lược châu Á" nhằm tăng cường quan hệ chính trị và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, văn hoá lâu dài với các nước ở khu vực này. Hiện nay, Na Uy có quan hệ thương mại nhiều với Nhật Bản, Trung Quốc và ngày càng chú trọng đến khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Vấn đề dân chủ, nhân quyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Là một trong những ưu tiên hàng đầu của Na Uy hiện nay. Bộ Ngoại giao Na Uy chịu sức ép rất lớn từ Quốc hội Na Uy về vấn đề này, do đó, phía Na Uy đánh giá cao cơ chế đối thoại nhân quyền với các nước nói chung và với Việt Nam nói riêng.

Hạt và Khu vực đô thị

[sửa | sửa mã nguồn]
Hạt (fylke) 2024[47]

Na Uy là một quốc gia đơn nhất, được chia 15 mười tám hạt hành chính cấp 1 (fylke)[47]. Các hạt được quản lý thông qua các hội đồng hạt và thống đốc hạt (được bầu trực tiếp bởi hội đồng hạt). Ngoài ra, Nhà vua và chính phủ có đại diện ở mọi hạt bởi một Fylkesmann, người hoạt động như một Thống đốc[48]. Như vậy, Chính phủ trực tiếp đại diện ở cấp địa phương thông qua các văn phòng của Thống đốc hạt. Các hạt sau đó được chia thành 422 thành phố (cấp hai - kommuner), được quản lý bởi hội đồng thành phố, do một thị trưởng và một nội các điều hành nhỏ đứng đầu. Thủ đô của Oslo được coi là một hạt và một đô thị.

Na Uy có hai lãnh thổ hải ngoại: Jan Mayen và Svalbard. Có ba lãnh thổ phụ thuộc tại Nam Cực và Subantarctic: Đảo Bouvet, Đảo Peter IĐất Nữ hoàng Maud. Trên hầu hết các bản đồ, có một khu vực không được thống nhất giữa Đất Nữ hoàng Maud và Cực Nam cho đến ngày 12 tháng 6 năm 2015, khi Na Uy chính thức sáp nhập khu vực đó[49].

Na Uy và các lãnh thổ hải ngoại.

Các hạt Na Uy gồm:

# Hạt (fylke) 2024[47] Trung tâm hành chính
3 Oslo Oslo
11 Rogaland Stavanger
15 Møre og Romsdal Molde
18 Nordland Bodø
31 Østfold Sarpsborg
32 Akershus Oslo
33 Buskerud Drammen
34 Innlandet Hamar
39 Vestfold Tønsberg
40 Telemark Skien
42 Agder Kristiansand
46 Vestland Bergen
50 tlo Trøndelag Steinkjer
55 Troms Tromsø
56 Finnmark Vadsø
Hạt (fylke) 2017 Trung tâm hành chính Đô thị đông dân Vùng địa lý
 Østfold Sarpsborg Fredrikstad Đông Na Uy
 Akershus Oslo Bærum Đông Na Uy
 Oslo Thành phố Oslo Oslo Đông Na Uy
 Hedmark Hamar Ringsaker Đông Na Uy
 Oppland Lillehammer Gjøvik Đông Na Uy
 Buskerud Drammen Drammen Đông Na Uy
 Vestfold Tønsberg Sandefjord Đông Na Uy
 Telemark Skien Skien Đông Na Uy
 Aust-Agder Arendal Arendal Nam Na Uy
 Vest-Agder Kristiansand Kristiansand Nam Na Uy
 Rogaland Stavanger Stavanger Tây Na Uy
 Hordaland Bergen Bergen Tây Na Uy
 Sogn og Fjordane Hermansverk Førde Tây Na Uy
 Møre og Romsdal Molde Ålesund Tây Na Uy
 Trøndelag Steinkjer Trondheim Trøndelag
 Nordland Bodø Bodø Bắc Na Uy
 Troms Tromsø Tromsø Bắc Na Uy
 Finnmark Vadsø Alta Bắc Na Uy
GDP của Na Uy từ 1865 đến 2004
Thủ đô Oslo của Na Uy, cũng là trung tâm kinh tế của đất nước

Na Uy có GDP bình quân đầu người cao thứ hai trong số các quốc gia châu Âu (chỉ xếp sau Luxembourg) và GDP bình quân đầu người (PPP) cao thứ sáu trên thế giới. Ngày nay, Na Uy được xếp hạng là quốc gia giàu thứ hai trên thế giới về giá trị tiền tệ, với mức dự trữ vốn lớn nhất trên đầu người lớn hơn bất kỳ quốc gia nào.[50] Theo CIA World Factbook, Na Uy là chủ nợ nước ngoài ròng.[51] Na Uy duy trì vị trí số một thế giới về Chỉ số phát triển con người của UNDP (HDI) trong sáu năm liên tiếp (2001-2006), và sau đó giành lại vị trí này vào năm 2009.[52] Mức sống ở Na Uy thuộc hàng cao nhất thế giới. Tạp chí Foreign Policy xếp Na Uy đứng cuối cùng trong Chỉ số các quốc gia thất bại năm 2009, đánh giá Na Uy là quốc gia hoạt động tốt và ổn định nhất thế giới.

Nền kinh tế Na Uy là một ví dụ về nền kinh tế hỗn hợp, một nhà nước phúc lợi tư bản thịnh vượng và một quốc gia dân chủ xã hội với sự kết hợp giữa kinh tế thị trường tự do và quyền sở hữu lớn của nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế quan trọng. Chăm sóc sức khỏe công cộng ở Na Uy là hoàn toàn miễn phí. Nguồn thu của nhà nước từ tài nguyên thiên nhiên có đóng góp đáng kể từ ngành công nghiệp dầu khí. Na Uy có tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4,8%, với 68% dân số trong độ tuổi 15-74 có việc làm.[53] 9,5% dân số trong độ tuổi 18-66 nhận trợ cấp tàn tật [54] và 30% lực lượng lao động được chính phủ tuyển dụng, cao nhất trong số các nước OECD.[55] Năng suất lao động, cũng như mức lương trung bình mỗi giờ ở Na Uy đều thuộc hàng cao nhất trên thế giới.[56][57]

Các giá trị bình đẳng của xã hội Na Uy đã giữ cho mức chênh lệch về lương giữa công nhân được trả lương thấp nhất so với CEO của hầu hết các công ty ít hơn nhiều so với các nền kinh tế phương Tây có trình độ phát triển tương đương.[58] Điều này cũng được thể hiện rõ trong hệ số Gini cực kỳ thấp của Na Uy, cho thấy Na Uy là nước có mức bất bình đẳng thu nhập rất thấp

Nhà nước nắm quyền sở hữu lớn trong các ngành công nghiệp chủ chốt, như ngành công nghiệp dầu khí (Statoil), sản xuất năng lượng thủy điện (Statkraft), sản xuất nhôm (Norsk Hydro), ngân hàng (DNB) và nhà cung cấp viễn thông (Telenor). Thông qua các công ty lớn này, chính phủ kiểm soát khoảng 30% giá trị cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán Oslo. Khi các công ty không niêm yết được đưa vào, nhà nước thậm chí còn có cổ phần cao hơn (chủ yếu từ quyền sở hữu giấy phép dầu trực tiếp). Na Uy là một quốc gia vận chuyển lớn và có đội tàu vận tải lớn thứ 6 thế giới, với 1.412 tàu vận tải thuộc sở hữu của Na Uy.

Đất nước này rất giàu tài nguyên thiên nhiên bao gồm dầu mỏ, thủy điện, thủy sản, rừng và khoáng sản. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên rất lớn đã được phát hiện vào những năm 1960, dẫn đến sự bùng nổ trong nền kinh tế. Na Uy đã trở thành một trong những nước có mức sống cao nhất trên thế giới một phần nhờ sở hữu một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên so với quy mô dân số. Năm 2011, 28% ngân sách của nhà nước được tạo ra từ ngành công nghiệp dầu khí.[59]

Na Uy là quốc gia đầu tiên ban hành luật cấm phá rừng, để ngăn chặn rừng mưa biến mất. Nước này tuyên bố ý định của mình tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc năm 2014, cùng với Vương quốc Anh và Đức. Các loại sản phẩm thường liên quan đến việc phá rừng là gỗ, đậu nành, dầu cọ và thịt bò. Giờ đây Na Uy phải tìm một cách mới để cung cấp các sản phẩm thiết yếu này mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.[60]

Những cuộc trưng cầu dân ý năm 1972 và 1994 cho thấy người dân Na Uy muốn ở bên ngoài Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, Na Uy cùng với IcelandLiechtenstein, tham gia vào thị trường chung Liên minh châu Âu thông qua thoả thuận Vùng Kinh tế châu Âu (EEA). Hiệp ước EEA giữa các quốc gia Liên minh châu Âu và các quốc gia EFTA – đã được đưa vào luật pháp Na Uy thông qua "EØS-loven"[61] – miêu tả quá trình áp dụng các quy định của Liên minh châu Âu tại Na Uy và các quốc gia EFTA. Điều này khiến Na Uy trở thành một thành viên tham gia sâu vào đa số các lĩnh vực của thị trường nội bộ Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, một số lĩnh vực, như nông nghiệp, dầu khí và đánh cá, không hoàn toàn phải tuân thủ Hiệp ước EEA. Na Uy cũng tham gia vào Thoả thuận Schengen và nhiều thoả thuận liên chính phủ khác giữa các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.

Đồng tiền tệ quốc gia là Krone Na Uy.

Tài nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Dầu khí

[sửa | sửa mã nguồn]
Sản xuất dầu là trung tâm của nền kinh tế Na Uy từ những năm 1970, với quyền sở hữu lớn của nhà nước (mỏ dầu Heidrun)

Na Uy là nước xuất khẩu dầu lớn thứ năm và xuất khẩu khí lớn thứ ba trên thế giới, nhưng quốc gia này lại không phải là thành viên của OPEC. Năm 1995, chính phủ Na Uy đã thành lập một Quỹ đầu tư quốc gia, sẽ được tài trợ bằng các khoản thu từ dầu mỏ, bao gồm thuế, cổ tức, doanh thu bán hàng và phí cấp phép. Điều này nhằm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nguồn thu từ dầu mỏ, giảm thiểu sự không ổn định từ tình trạng biến động của giá dầu và cung cấp một nguồn kinh phí cho quỹ hưu trí của đất nước trong bối cảnh già hóa dân số.

Chính phủ kiểm soát tài nguyên dầu mỏ thông qua sự kết hợp giữa quyền sở hữu một phần của nhà nước đối với các công ty khai thác dầu lớn (với tỷ lệ sở hữu khoảng 62% đối với công ty Statoil vào năm 2007) và công ty Petoro hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà nước, có giá trị thị trường gấp đôi so với Statoil và SDFI. Cuối cùng, chính phủ kiểm soát việc cấp phép thăm dò và sản xuất của các khu khai thác. Các quỹ đầu tư vào thị trường tài chính phát triển bên ngoài Na Uy. Quy tắc ngân sách (Handlingsregelen) là chi tiêu không quá 4% quỹ mỗi năm (được coi là lợi tức bình thường từ quỹ).

Từ năm 1966 đến 2013, các công ty Na Uy đã khoan tổng cộng 5085 giếng dầu, chủ yếu ở Biển Bắc.[62] Trong đó có 3672 giếng dầu là utviklingsbrønner (khai thác thường xuyên);[62] 1413 là letebrønner (thăm dò); và 1405 đã chấm dứt khai thác (avsluttet).[62]

Các mỏ dầu chưa trong giai đoạn khai thác bao gồm: mỏ dầu Wisting Central - với trữ lượng ước tính trong năm 2013 là 65-156  triệu thùng dầu và 10 đến 40 tỷ foot khối (0,28 đến 1,13 tỷ mét khối) khí đốt.[63] cùng với đó là mỏ dầu Castberg (Castberg-feltet [63]) có trữ lượng ước tính 540 triệu thùng dầu, và 2 đến 7 tỷ foot khối (57 đến 198 triệu mét khối) khí đốt.[64] Cả hai mỏ dầu đều nằm ở Biển Barents.

Thủy sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Na Uy cũng là nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ hai thế giới (về giá trị, sau Trung Quốc).[65][66] Thủy sản được nuôi từ các trang trại và thủy sản đánh bắt là sản phẩm xuất khẩu lớn thứ hai của Na Uy (sau dầu / khí tự nhiên) được đo bằng giá trị.[67][68]

Các nhà máy thủy điện tạo ra khoảng 98 - 99% sản lượng điện của Na Uy, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới.[69]

Khoáng sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Na Uy có nhiều tài nguyên khoáng sản quan trọng và năm 2013, sản lượng khoáng sản của nước này trị giá 1,5 tỷ USD (theo dữ liệu khảo sát địa chất Na Uy). Các khoáng sản có giá trị nhất là calci cacbonat (đá vôi), đá xây dựng, nepheline syenite, olivine, sắt, titanniken.[70]

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Giao thông vận tải ở Na Uy chịu ảnh hưởng lớn bởi mật độ dân số thấp, hình dạng hẹp và đường bờ biển dài của Na Uy. Na Uy có truyền thống lâu đời về giao thông đường thủy, nhưng vận tải đường bộ, đường sắt và hàng không đã tăng tầm quan trọng trong thế kỷ 20. Do mật độ dân số thấp, giao thông công cộng có phần ít được chú trọng ở các vùng nông thôn của Na Uy, tuy nhiên giao thông công cộng ở các thành phố rất phát triển. Việc xây dựng một hệ thống đường sắt cao tốc mới nối liền các thành phố lớn nhất của quốc gia hiện cũng đang trong quá trình thảo luận.[71][72]

Trung bình mỗi người Na Uy tham gia giao thông khoảng 70 phút mỗi ngày. Năm 2008 có khoảng 8% vận tải hành khách được thực hiện bằng giao thông công cộng; vận tải đường bộ là phương thức vận tải công cộng chủ yếu.[73] Con số này đã tăng lên 10% trong năm 2017.[74] Ngành giao thông vận tải chiếm tỷ lệ 4,1% trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân và 6,6% lực lượng lao động vào năm 2006.[73] Theo một báo cáo trong năm 2013 của Diễn đàn Kinh tế thế giới,[75] Na Uy đứng thứ 83 trong tổng số 140 quốc gia về chất lượng đường bộ, 47/122 về chất lượng cơ sở hạ tầng đường sắt, 25/140 về chất lượng cơ sở hạ tầng cảng và 54/ 140 về mạng lưới giao thông đường bộ.

Mạng lưới đường sắt chính của Na Uy bao gồm 4.114 kilômét (2.556 mi) đường sắt khổ tiêu chuẩn, trong đó 242 kilômét (150 mi) là đường đôi và 64 kilômét (40 mi) là đường sắt cao tốc (210   km/h)[76] Toàn bộ mạng lưới đường sắt thuộc sở hữu của Cơ quan quản lý đường sắt quốc gia Na Uy.[77] Tất cả các chuyến tàu chở khách nội địa ngoại trừ các chuyến tàu tốc hành sân bay đều được điều hành bởi Norges Statsbaner (NSB).[78] Một số công ty điều hành tàu chở hàng.[79] Các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng và bảo trì được tài trợ thông qua ngân sách nhà nước [77]. NSB điều hành các chuyến tàu đường dài, bao gồm các chuyến tàu đêm, dịch vụ khu vực và bốn hệ thống đường sắt ngoại ô xung quanh các thành phố Oslo, Trondheim, Bergen và Stavanger.[80] Tàu điện có ở các thành phố lớn như Oslo, Trondheim và Bergen. Hệ thống tàu điện ngầm duy nhất của Na Uy nằm ở thủ đô Oslo.

Na Uy sở hữu một mạng lưới đường bộchiều dài 92.946 kilômét (57.754 mi), trong đó 72.033 kilômét (44.759 mi) được trải nhựa và 664 kilômét (413 mi) là đường cao tốc.[81] Các tuyến đường bộ được chia làm bốn cấp bậc: quốc gia, hạt, thành phố và tư nhân, với các tuyến quốc lộ và hạt lộ quan trọng nhất được đánh số. Các tuyến đường quốc gia quan trọng nhất là một phần của sơ đồ Mạng lưới Đường bộ Quốc tế Châu Âu và hai tuyến nổi bật nhất là E6 đi theo hướng bắc-nam qua toàn bộ quốc gia, trong khi E39 đi dọc theo vùng ven biển phía tây. Các tuyến đường quốc lộ và hạt lộ được quản lý bởi Cục quản lý đường bộ Công cộng Na Uy.[82]

Trong năm 2007, có 2,6 triệu ô tô ở Na Uy, tỉ lệ là 444 chiếc trên 1000 cư dân.[73]. Từ năm 2007 đến 2011, xe ô tô diesel chiếm hơn 70% số xe mới, tuy vậy con số này giảm xuống còn 40% trong năm 2015.[83]

Na Uy có số lượng xe sạc điện lớn nhất thế giới tính theo đầu người, thành phố Oslo cũng được công nhận là thủ đô xe sạc điện của thế giới.[84][85][86] Vào tháng 3 năm 2014, Na Uy đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới có hơn 1/100 xe vận chuyển hành khách trên đường là xe sạc điện.[87] Ô tô điện của Na Uy rất thân thiện với môi trường vì gần 100% điện năng được tạo ra từ thủy điện.[88] Tính đến tháng 12 năm 2014, tổng cộng 43.442 xe sạc điện đã được đăng ký tại Na Uy.[89]

Có tổng cộng 98 sân bay ở Na Uy,[51] trong đó có 46 sân bay được điều hành bởi công ty Avinor thuộc sở hữu của nhà nước.[90] Có bảy sân bay tại Na Uy đạt được hơn một triệu lượt khách mỗi năm.[91]

Mỗi hạt chịu trách nhiệm điều hành hệ thống xe buýt và thuyền chở khách trong địa bàn của họ,[92][93]. Có tổng cộng 6.194 xe buýt hoạt động trong năm 2007; doanh thu bán vé là 3.721 triệu NOK trong khi ngành vận tải xe buýt nhận được trợ cấp của chính phủ là 3,393 triệu NOK.[94]

Dịch vụ xe buýt và thuyền chở khách thường được điều hành bởi các công ty tư nhân theo hợp đồng với hạt hoặc cơ quan giao thông công cộng của họ (như Ruter hoặc Vestviken Kollektivtrafikk). Dịch vụ xe khách đường dài được điều hành bởi nhiều công ty khác nhau, hầu hết đều hợp tác thông qua NOR-WAY Bussekspress.[95] Ở Bắc Na Uy (chủ yếu từ Fauske và xa hơn về phía bắc) dịch vụ xe khách đường dài được điều hành bởi các hạt.

Cơ sở hạ tầng ven biển được điều hành bởi Cơ quan quản lý ven biển Na Uy,[96] trong khi cảng được điều hành bởi các thành phố.[96][97] Na Uy có 90.000 kilômét (56.000 mi) bờ biển, 400.000 tàu giải trí [96] và 715 tàu thương mại.[81] Na Uy là quốc gia sở hữu đội tàu lớn thứ năm, chiếm 5% số lượng tàu biển của thế giới;[98]

Phà có vai trò quan trọng trong việc di chuyển giữa các vịnh hẹp và các đảo. Có khoảng hơn một trăm bến phà ở Na Uy. Phà chở khách nhanh hoạt động ở nhiều vịnh hẹp và đảo làm cho việc đi lại bằng đường thủy nhanh và tiện hơn nhiều so với đường bộ; một số đảo nhỏ còn có dịch vụ xe buýt đường thủy.[99]

Ngành công nghiệp chế biến dầu mỏkhí đốt tự nhiên sử dụng hệ thống đường ống để vận chuyển dầu và khí đốt từ thềm lục địa Na Uy đến các nhà máy chế biến trên khắp châu lục; hệ thống đường ống có tổng chiều dài là 9.481 kilômét (5.891 mi)[81]. Công ty Gassco thuộc sở hữu của chính phủ điều hành tất cả các đường ống khí đốt tự nhiên; trong năm 2006, 88 tỷ mét khối khí đã được vận chuyển thông qua các đường ống này [100]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà thờ gỗ ván Borgund

Dân số Na Uy là 5.096.300 người vào tháng 10 năm 2013. Đa số người Na Uy thuộc sắc tộc Na Uy, một nhóm người Germanic Bắc. Người bản xứ người Sami theo truyền thống sống ở các vùng trung tâm và phía bắc Na Uy và Thuỵ Điển cũng như vùng bắc Phần Lan và tại Nga trên Bán đảo Kola. Một cộng đồng thiểu số quốc gia khác là người Kven có nguồn gốc từ những người nói tiếng Phần Lan đã tới miền bắc Na Uy ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Từ thế kỷ 19 đến những năm 1970, chính phủ Na Uy đã cố gắng đồng hóa cả người Sámi và người Kven, khuyến khích họ chấp nhận ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo đa số.[101] Do quá trình "Na Uy hóa" này, nhiều gia đình có tổ tiên là người Sámi hoặc Kven hiện được xác định là người thuộc sắc tộc Na Uy.[102] Các nhóm khác tự nhận là thiểu số quốc gia Na Uy gồm người Do Thái, Forest Finns, Roma/Gypsiesngười Rumani/Travellers.

Nhập cư

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2012, một nghiên cứu chính thức cho thấy 86% [103] dân số có ít nhất một người cha hoặc người mẹ được sinh ra ở Na Uy. Hơn 710.000 người (13% dân số) [104] là người nhập cư; bao gồm cả 117.000 trẻ em được sinh ra ở Na Uy nhưng có bố mẹ là người nhập cư.

Trong tổng số 710.000 người nhập cư và con cháu của họ:

Năm 2013, chính phủ Na Uy cho biết 14% dân số Na Uy là người nhập cư hoặc là người sinh ra ở Na Uy nhưng có cả cha lẫn mẹ là người nhập cư. Khoảng 6% dân số là người nhập cư đến từ EU, Bắc Mỹ và Úc, và khoảng 8,1% dân số là người nhập cư đến từ Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh.[105]

Năm 2012, chỉ có 40.262 người nhập cư có quốc tịch Na Uy (tỉ lệ 62,2%).[106]

Người nhập cư thường định cư ở các đô thị lớn của Na Uy. Các thành phố có tỷ lệ người nhập cư cao nhất trong năm 2012 là Oslo (32%) và Drammen (27%).[107] Innvandrere og norskfødte med innvandrerforeldre, 25 tháng 4 năm 2013 Thống kê Na Uy [107] Theo Reuters, Oslo là "thành phố phát triển nhanh nhất ở châu Âu vì tình trạng nhập cư gia tăng".[108] Trong những năm gần đây, nhập cư đã chiếm phần lớn trong tăng trưởng dân số của Na Uy. Trong năm 2011, 16% trẻ sơ sinh có cha mẹ là người nhập cư.

Vào thế kỷ 19, trong bối cảnh kinh tế khó khăn ở Na Uy, hàng chục ngàn người đã di cư sang Hoa KỳCanada. Nhiều người đã đến định cư ở vùng Trung Tây và Tây Bắc Thái Bình Dương. Năm 2006, theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, gần 4,7  triệu người được xác định là người Mỹ gốc Na Uy,[109] lớn hơn cả số người Na Uy sống ở Na Uy.[110] Trong cuộc điều tra dân số ở Canada năm 2011, 452.705 công dân Canada được xác định là có nguồn gốc Na Uy.[111]

Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013, số người thuộc diện là dân nhập cư hoặc dân sinh ra ở Na Uy nhưng có bố mẹ là người nhập cư nước ngoài đã lên tới con số 710.465, tương đương 14,1% dân số,[105] tăng từ con số 183.000 người vào năm 1992. Tỉ lê nhập cư hàng năm đã tăng liên tục kể từ năm 2005. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng dân nhập cư tới từ các nước thuộc EU, đặc biệt là từ Ba Lan.[112]

Các nhóm người nhập cư lớn nhất (Thế hệ 1 và 2) [113]
Quốc gia Dân số
Ba Lan 97.196
Litva 37.638
Thụy Điển 36.315
Somalia 28.696
nước Đức 24.601
Iraq bao gồm cả khu vực Kurdistan 22,493
Syria 20.823
Philippines 20,537
Pakistan 19.973
Eritrea 19.957

Năm 2012, cộng đồng người nhập cư (bao gồm người nhập cư và trẻ em sinh ra ở Na Uy có cha mẹ là người nhập cư) đã đạt mức kỷ lục.[105] Số người nhập cư vào Na Uy trong năm 2012 là 47.300 người (cao hơn 300 người so với năm 2011), trong khi nhập cư chiếm 72% tăng trưởng dân số của Na Uy.[114] 17% trẻ sơ sinh được sinh ra bởi cha mẹ là người nhập cư.[105] Con cái của các bậc cha mẹ người Pakistan, Somalia và Việt Nam tạo thành các nhóm lớn nhất của tất cả người Na Uy được sinh ra bởi cha mẹ là người nhập cư.[115]

Người Na Uy gốc Pakistan là nhóm thiểu số không có nguồn gốc châu Âu lớn nhất ở Na Uy. Hầu hết trong số 32.700 cư dân của nhóm này sống trong và xung quanh thành phố Oslo. Dân số nhập cư tới từ Iraq và Somalia đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Sau khi EU mở rộng số thành viên vào năm 2004, một làn sóng người nhập cư đã đến Na Uy từ các nước Trung và Bắc Âu, đặc biệt là Ba Lan, Thụy Điển và Litva. Số người nhập cư trong năm 2011 chủ yếu là từ Ba Lan, Litva và Thụy Điển.[116] Các chính sách liên quan đến vấn đề nhập cư là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận ở Na Uy.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà thờ Bắc Cực ở Tromsø được xem là biểu tượng của Kitô giáo ở Na Uy.
Nhà thờ cột và ván gỗ (tiếng Na Uy: Stavkirke) là phong cách xây dựng nhà thờ Kitô giáo thời Trung cổ từng rất phổ biến Na Uy

Tương tự như các quốc gia vùng Scandinavia khác, người Na Uy theo một hình thức ngoại giáo Germanic được gọi là ngoại giáo Na Uy. Tới cuối thế kỷ XI, khi Na Uy đã Ki-tô hoá, việc theo và thực hiện các nghi thức tôn giáo Na Uy bị cấm. Tuy nhiên, các đạo luật chống ngoại giáo đã bị dỡ bỏ hồi đầu thế kỷ XX.[cần dẫn nguồn] Nhiều tàn dư của tôn giáo bản xứ và các đức tin Na Uy vẫn còn tồn tại ngày nay, gồm những cái tên, những cái tên liên quan tới các thành phố và địa điểm, những ngày trong tuần, và nhiều phần khác trong ngôn ngữ hàng ngày.

Nhiều người trong cộng đồng thiểu số Sami vẫn giữ tôn giáo shamanistic của họ tới tận thế kỷ XVIII khi họ cải theo Thiên chúa giáo bởi các nhà truyền giáo Đan Mạch-Na Uy.

Theo thống kê hiện nay các tôn giáo ở Na Uy phân ra như sau: Kháng Cách dòng Giáo hội Luther 85.7%, Chính Thống giáo 1%, Công giáo Rôma 1%, Cơ đốc giáo khác 2.4%, Hồi giáo 1.8%, tôn giáo khác 8.1%.

Trong số các tôn giáo không phải Kitô giáo, đạo Hồi là lớn nhất, chiếm khoảng 1.5% tổng dân số: Chủ yếu đạo này là thuộc các cộng đồng người Somalia, Ả Rập, người Albani, người Pakistanngười Thổ Nhĩ Kỳ. Các tôn giáo khác với chưa tới 1% dân số gồm Đạo Do Thái (xem Người Do Thái ở Na Uy), Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô, và Nhân Chứng Jehovah Những người nhập cư từ Ấn Độ đã đưa Hindu giáo tới Na Uy, nhưng chỉ chiếm 0.50% dân số. Phật giáo ở Na Uy có 11 tổ chức, được thống nhất dưới tổ chức Hội Phật giáo Na Uy, với trên dưới 10.000 Phật tử, chiếm 0.42% dân số.[117] Khoảng 1.5% người Na Uy tham gia Hiệp hội Nhân văn Na Uy. Khoảng 5% dân số không theo đạo nào.[118]

Các ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ Na Uy Bắc Germanic có hai hình thức viết chính thức, BokmålNynorsk. Chúng được sử dụng chính thức như nhau, ví dụ chúng đều được dùng trong hành chính công cộng, trong các trường học, nhà thờ, đài và vô tuyến, nhưng Bokmål được đại đa số người sử dụng, khoảng 85-90%. Khoảng 95% dân số sử dụng tiếng Na Uy như tiếng mẹ đẻ, dù nhiều người nói các thổ ngữ có thể khác biệt rất nhiều so với ngôn ngữ viết. Nói chung các thổ ngữ Na Uy có thể hiểu lẫn nhau, dù một số thổ ngữ có thể đòi hỏi một số cố gắng. Nhiều ngôn ngữ Sami Finno-Ugric được nói và viết trên khắp đất nước, đặc biệt ở phía bắc, bởi người Sami. Nhà nước công nhận những ngôn ngữ đó là ngôn ngữ chính thức và những người sử dụng chúng có quyền được nhận giáo dục bằng ngôn ngữ Sami không cần biết nơi sinh sống, và nhận được thông tin từ chính phủ bằng nhiều ngôn ngữ Sami. Cộng đồng thiểu số Kven nói tiếng Phần Lan/ngôn ngữ Kven Finno-Ugric.

Các ngoại ngữ chính (primærfremmedspråk) được dạy tại Na Uy là tiếng Anh, tiếng Đứctiếng Pháp. Mọi người có thể liên hệ với chính quyền hay trải qua các kỳ thi bằng bất kỳ ngôn ngữ nào trong ba ngôn ngữ chính trên cũng như hai ngôn ngữ Bắc Germanic (tiếng Đan Mạchtiếng Thuỵ Điển)[cần dẫn nguồn]. Tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha cũng thường được dạy như ngôn ngữ thứ hai hoặc thường xuyên hơn là ngôn ngữ thứ ba. Tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Ý, tiếng Latin và tiếng Trung (tiếng phổ thông) được giảng dạy ở một số trường, chủ yếu ở các thành phố. Theo truyền thống, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Pháp được coi là các ngoại ngữ chính ở Na Uy.

Bất kỳ học sinh Na Uy nào có cha mẹ là người nhập cư đều được khuyến khích học tiếng Na Uy. Chính phủ Na Uy cung cấp các khoá học tiếng cho người nhập cư muốn có được quyền công dân Na Uy.

Tiếng Na Uy rất giống với các ngôn ngữ Bắc Germanic khác, tiếng Thuỵ Điểntiếng Đan Mạch. Cả ba ngôn ngữ đều có thể hiểu được lẫn nhau và có thể, nói chung, được sử dụng trong giao tiếp giữa người dân các nước vùng Scandinavia.

Na Uy đã liên tục đứng đầu thế giới về Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Liên Hợp Quốc kể từ năm 2013.[119] Trong những năm 1800, ngược lại, tình trạng nghèo đói và các bệnh truyền nhiễm lan rộng ở Na Uy cùng với nạn đói và dịch bệnh, tuy vậy đến những năm 1900 đã được cải thiện rất nhiều.

Các loại bệnh điển hình ở Na Uy đã thay đổi từ các bệnh truyền nhiễm sang các bệnh không lây nhiễm và các bệnh mãn tính như bệnh tim mạch. Bất bình đẳng và phân biệt xã hội vẫn còn hiện diện trong dịch vụ y tế công cộng ở Na Uy ngày nay.[120]

Năm 2013, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 2,5 trên 1.000. Ti lệ đối với các bé gái là 2,7 và bé trai là 2,3, đây là tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất ở các bé trai từng được ghi nhận ở Na Uy.[121]

Nhân quyền

[sửa | sửa mã nguồn]
Hướng đạo sinh cầm cờ Na Uy dẫn đầu một đoàn diễu hành ngày 17 tháng 5, Ngày hiến pháp Na Uy

Quyền Tự do tư tưởng đã được quy định ở Điều 100 trong Hiến pháp Na Uy. Tự do tôn giáo được ghi trong Điều 2 Hiến pháp, điều này cũng quy định quốc giáo là "Phúc âm Luther". Báo chí không bị kiểm duyệt. Các tổng biên tập tự mình phải thận trọng, nhằm bảo vệ bí mật cá nhân của mọi người và các quyền dân sự khác.(Vær Varsom-plakaten- Wikipedia Na Uy, xem [4] bản dịch sang tiếng Anh).

Đài phát thanh và truyền hình công cộng không bị sự can thiệp của chính phủ, dù giấy phép truyền thanh, truyền hình phụ thuộc vào tính chất của chương trình. Phát sóng quảng cáo bị quản lý, với một số giới hạn đặc biệt về các thông tin quảng cáo chính trị có trả tiền và quảng cáo trực tiếp tới trẻ em.

Hiến pháp cấm các luật có hiệu lực trong quá khứ, việc trừng phạt dựa trên các luật và các quyết định toà án, và việc sử dụng tra tấn. Tử hình với các tội nặng trong thời gian chiến tranh đã bị huỷ bỏ năm 1979.[122]

Năm 1999, các thoả ước Nhân quyền của Liên hiệp quốcHội đồng châu Âu đã được đưa thành luật pháp ở Na Uy (menneskerettsloven) và chúng có quy chế ưu tiên chỉ sau hiến pháp.[123] Tuy nhiên, các luật sư Na Uy đã gia nhập Uỷ ban chống Tra tấn của Hội đồng châu Âu nhằm thể hiện sự lo ngại của mình với sự giam giữ lâu ngày với những người bị kiện tụng và việc sử dụng hình phạt biệt giam ở Na Uy, coi nó là hình thức tra tấn.[124] Thời gian xử lý đơn xin nhập cư dài cũng như việc xử lý những người định cư bất hợp pháp cũng đang bị tranh cãi.

Năm 2005, các thoả ước quốc tế chống phân biệt nam nữ và dòng giống đã được đưa vào (nhưng không vượt hơn) luật pháp Na Uy. Tổ chức Ân xá Quốc tế gần đây đã chú ý tới tình trạng bạo lực chống phụ nữ ở Na Uy và sự thiếu hụt dịch vụ chăm sóc các nạn nhân bạo lực.[125]

Na Uy có chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc với nam giới. Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt đầu ở tuổi 18 cho lần phục vụ đầu tiên (førstegangstjeneste) trong thời gian sáu tới mười hai tháng (việc này có thể bắt đầu từ tuổi 17 theo sở thích cá nhân). Sau khi hoàn thành giai đoạn nghĩa vụ quân sự đầu tiên, các quân nhân được chuyển sang các đơn vị phục vụ, và có thể được triệu tập cho các đợt huấn luyện theo giai đoạn (repetisjonstjeneste) cho tới tuổi 44. Những người từ chối nghĩa vụ quân sự sẽ phải phục vụ mười hai tháng cho một hoạt động dịch vụ dân sự quốc gia. Nếu người đó từ chối thực hiện hoạt động này (sesjon), theo đó bất kỳ sự từ chối nào với nghĩa vụ quân sự tương lai được đề cập tới, anh ta có thể bị truy tố. Một người dường như thích hợp để thực hiện nghĩa vụ và không phải là một người từ chối thực hiện nghĩa vụ, nhưng vẫn từ chối thực hiện hoạt động quân sự cũng có thể bị truy tố. Những thay đổi trong cơ cấu các lực lượng vũ trang đã dẫn tới nhu cầu về nghĩa vụ quân sự bắt buộc giảm đi, và số nam giới cần thiết cũng đang sụt giảm.

Na Uy được coi là một quốc gia cấp tiến, đã áp dụng nhiều quy định và chính sách để hỗ trợ cho quyền lợi của phụ nữ, quyền của người thiểu số và quyền lợi của những người đồng tính. Đầu năm 1884, Hiệp hội Quyền phụ nữ Na Uy được thành lập.[126] Họ đã vận động thành công để công nhận các quyền được giáo dục của phụ nữ, quyền bầu cử của phụ nữ, quyền làm việc và thông qua nhiều chính sách bình đẳng giới khác. Từ những năm 1970, bình đẳng giới cũng được đề cao trong chương trình nghị sự của nhà nước, với việc thành lập một cơ quan công quyền để thúc đẩy bình đẳng giới.

Năm 1990, một điều khoản trong hiến pháp Na Uy đã được sửa đổi liên quan dến vấn đề trao quyền thừa kế cho ngai vàng Na Uy, theo đó đứa con lớn nhất của vị quốc vương sẽ luôn được trao quyền kế vị bất kể giới tính là nam hay nữ [127]

Người Sámi (một dân tộc thiểu số) trong nhiều thế kỷ đã phải đối mặt sự phân biệt đối xử và lạm dụng.[128] Na Uy đã bị chỉ trích rất nhiều bởi cộng đồng quốc tế về chính sách Na Uy hóa và phân biệt đối xử đối với các dân tộc thiểu số của đất nước.[129] Tuy nhiên, vào năm 1990, Na Uy là quốc gia đầu tiên công nhận Công ước về Bộ lạc và Dân tộc Bản địa được LHQ khuyến nghị.

Đồng tính đã chính thức bị loại bỏ khỏi tội danh hình sự năm 1972 và hôn nhân đồng giới dân sự đã được quy định năm 1993. Theo cơ quan Thống kê Na Uy (SSB), 192 cuộc hôn nhân đồng giới đã được ghi nhận từ năm 2004. Từ năm 2002, các cặp đồng giới đã có thể được nuôi con của người kia từ những cuộc hôn nhân trước, dù việc cùng nhận con nuôi mãi tới năm 2007 mới được phép. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, Na Uy đã trở thành quốc gia thứ sáu trao quyền bình đẳng hôn nhân cho các cặp đồng giới.

Xếp hạng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Tổ chức Lĩnh vực Xếp hạng
Quỹ Tiền tệ Quốc tế GDP trên đầu người 2 trên 232 (2006)
Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc Chỉ số Phát triển Con người 2 trong số 177 (2007) (1, 2001-2006)
A.T. Kearney / Chính sách Đối ngoại Globalization Index 2005 14 trên 111
Heritage Foundation / Wall Street Journal Chỉ số Tự do Kinh tế 2006 Lưu trữ 2008-02-04 tại Wayback Machine 30 trên 155
Phóng viên Không Biên giới Phóng viên Không biên giới#Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới 1 trên 168 (1st 2002-2005)
Save the Children Quốc gia các Bà mẹ của Thế giới 2004 Lưu trữ 2004-05-07 tại Wayback Machine  (Trẻ em) 1 trên 119
Save the Children Quốc gia các Bà mẹ của Thế giới 2004 Lưu trữ 2004-05-07 tại Wayback Machine  (Phụ nữ) 6 trên 119
Save the Children Quốc gia các Bà mẹ của Thế giới 2004 Lưu trữ 2004-05-07 tại Wayback Machine  (Các bà mẹ) 6 trên 119
UNICEF Child Well-being league table 7 trên 21 quốc gia công nghiệp
Minh bạch Quốc tế Chỉ số Nhận thức Tham nhũng 2004 Lưu trữ 2005-08-29 tại Wayback Machine 8 trên 145
Diễn đàn Kinh tế Thế giới Báo cáo Cạnh tranh Quốc tế 2005-2006 9 trên 117
Nationmaster Đình công 5 trên 27
The Economist Intelligence Unit Chỉ số Chất lượng Cuộc sống Thế giới, 2005 3 trên 111
Yale University/Columbia University Chỉ số Bền vững Môi trường, 2005 (pdf) Lưu trữ 2011-08-05 tại Wayback Machine 2 trên 146
The Fund for Peace Failed States Index, 2007 Lưu trữ 2007-06-20 tại Wayback Machine 177 trên 177 (177 là hạng tốt nhất)
The Economist Global Peace Index 1 trên 121

Văn học

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử văn học Na Uy bắt đầu với những bài thơ Eddaicthơ skaldic ngoại giáo ở thế kỷ thứ IX và thứ X với những nhà thơ như Bragi BoddasonEyvindr Skáldaspillir. Sự xuất hiện của Thiên chúa giáo ở khoảng năm 1000 đã đưa Na Uy tiếp xúc với những tri thức, tiểu sử các vị thánh, và lịch sử bằng chữ viết của châu Âu thời Trung Cổ. Hoà trộn với truyền thống khẩu ngữ địa phương và ảnh hưởng của Ireland nó đã dẫn tới giai đoạn phát triển rực rỡ của văn chương ở cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII. Các tác phẩm chính của giai đoạn này gồm Historia Norwegie, Thidreks sagaKonungs skuggsjá.

Thời kỳ Liên minh Scandinave và Liên minh Đan Mạch-Na Uy (1387—1814) có ít tác phẩm văn học Na Uy xuất hiện, ngoại trừ một số tác phẩm đáng lưu ý của Petter DassLudvig Holberg. Trong vở kịch Peer Gynt của mình, Ibsen đã gọi giai đoạn này là "Hai lần hai trăm năm bóng tối/nghiền ngẫm về cuộc đua của những chú khỉ", dù dòng sau này thường không được trích dẫn nhiều như dòng trước. Trong thời gian liên minh với Đan Mạch, văn viết tiếng Na Uy đã thay thế bởi chữ Đan Mạch.

Hai sự kiện lớn đã thúc đẩy sự hồi sinh của văn học Na Uy. Năm 1811 một trường đại học Na Uy được thành lập tại Christiania. Với tinh thần cách mạng sau các cuộc Cách mạng Mỹ và Pháp, người Na Uy đã ký bản hiến pháp đầu tiên của mình năm 1814. Ngay sau đó, từ sự tù túng văn hoá Na Uy đã đưa lại cho thế giới một loạt các tác gia được công nhận đầu tiên ở Scandinavia, và sau đó là trên toàn thế giới; trong số đó có Henrik Wergeland, Peter Asbjørnsen, Jørgen MoeCamilla Collett.

Tới cuối thế kỷ XIX, ở Thời Vàng son của văn hoá Na Uy, cái gọi là Bộ bốn Vĩ đại xuất hiện: Henrik Ibsen, Bjørnstjerne Bjørnson, Alexander Kielland, và Jonas Lie. "Các tiểu thuyết nông dân" của Bjørnson, như "En glad gutt" (Một chú bé hạnh phúc) và "Synnøve Solbakken" là kiểu chủ nghĩa lãng mạn quốc gia tiêu biểu của thời gian ấy, trong khi đó các tiểu thuyết và truyện ngắn của Kielland chủ yếu mang tính hiện thực. Dù một người đóng góp quan trọng vào chủ nghĩa lãng mạn Na Uy thời kỳ đầu (đặc biệt là tác phẩm châm biếm Peer Gynt), tên tuổi của Henrik Ibsen chủ yếu được biết tới là người tiên phong với các vở kịch hiện thực như Chú vịt hoangMột ngôi nhà búp bê, nhiều vở đã gây ra những tiếng vang về đạo đức vì nội dung của nó chính là chân dung của tầng lớp trung lưu.

Ở thế kỷ XX ba tiểu thuyết gia Na Uy đã được trao Giải Nobel văn học: Bjørnstjerne Bjørnson năm 1903, Knut Hamsun cho cuốn sách "Markens grøde" ("Nhựa của đất") năm 1920, và Sigrid Undset năm 1928. Trong thế kỷ XX các tác gia như Dag Solstad, Jostein Gaarder, Jens Bjørneboe, Kjartan Fløgstad, Lars Saabye Christensen, Johan Borgen, Herbjørg Wassmo, Jan Erik Vold, Rolf Jacobsen, Olaf Bull, Jan Kjærstad, Georg Johannesen, Tarjei Vesaas, Sigurd Hoel, Arnulf ØverlandJohan Falkberget đã có những đóng góp quan trọng cho văn học Na Uy.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]
Vận động viên trượt tuyết Marit Bjørgen đến từ Na Uy là vận động viên thành công nhất mọi thời đại ở các kỳ Thế vận hội Mùa đông, với tổng cộng 15 huy chương

Thể thao là một phần quan trọng của văn hóa Na Uy và các môn thể thao phổ biến của nước này bao gồm bóng đá, bóng ném, hai môn phối hợp, trượt tuyết băng đồng, trượt tuyết nhảy, trượt băng và ở mức độ thấp hơn là khúc côn cầu trên băng.

Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Na Uy về số người chơi. Trong một cuộc bình chọn vào năm 2014, bóng đá xếp sau biathlontrượt tuyết băng đồng về mức độ phổ biến đối với khán giả.[130] Khúc côn cầu trên băng là môn thể thao trong nhà phổ biến nhất.[131] Đội tuyển bóng ném nữ Na Uy đã giành được một số danh hiệu quốc tế, bao gồm 2 chức vô địch tại Thế vận hội Mùa hè (2008, 2012), 3 Cúp thế giới (1999, 2011, 2015) và 6 lần giành Cúp châu Âu (1998, 2004, 2006, 2008, 2010, 2014).

Trong bóng đá, đội tuyển bóng đá quốc gia nữ Na Uy đã giành được chức vô địch World Cup vào năm 1995 và huy chương vàng Thế vận hội năm 2000. Đội nữ cũng có hai danh hiệu vô địch châu Âu (1987, 1993). Đội tuyển bóng đá quốc gia nam Na Uy đã 3 lần tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới (1938, 1994, 1998), và một lần tham dự Giải vô địch bóng đá châu Âu (2000). Thứ hạng FIFA cao nhất mà đội tuyển bóng đá Na Uy đạt được là vị trí thứ 2, một vị trí mà họ đã giữ hai lần, vào các năm 1993 và năm 1995.[132]

Cờ vua cũng đang trở nên phổ biến ở Na Uy. Kỳ thủ Na Uy Magnus Carlsen là nhà vô địch thế giới hiện tại.[133] Có khoảng 10 Grandmasters và 29 International Master ở Na Uy.

Bandy (khúc côn cầu gậy cong) là một môn thể thao truyền thống ở Na Uy và đất nước này là một trong bốn nước sáng lập Liên đoàn Quốc tế Bandy. Xét về số vận động viên được cấp phép, đây là môn thể thao mùa đông lớn thứ hai trên thế giới.[134] Kể từ tháng 1 năm 2018, đội tuyển quốc gia nam đã giành được một huy chương bạc và một huy chương đồng.

Na Uy lần đầu tiên cử vận động viên tham gia Thế vận hội Olympic vào năm 1900, và đã cử các vận động viên tham gia thi đấu ở mọi Thế vận hội kể từ đó, ngoại trừ Thế vận hội 1904Thế vận hội Mùa hè 1980 tại Moscow khi họ tẩy chay kỳ Thế vận hội này, giống như nhiều nước Phương Tây khác. Na Uy dẫn đầu về số huy chương tại Thế vận hội Olympic mùa đông. Các vận động viên thể thao mùa đông nổi tiếng của Na Uy bao gồm vận động viên hai môn phối hợp Ole Einar Bjørndalen, vận động viên trượt băng tốc độ Johan Olav Koss và Hjalmar Andersen, vận động viên trượt băng nghệ thuật Sonja Henie và vận động viên trượt tuyết việt dã Marit Bjørgen và Bjørn Dæhlie.

Na Uy đã tổ chức Thế vận hội 2 lần:

Văn hoá, giáo dục và thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ sở hạ tầng

[sửa | sửa mã nguồn]

Các danh sách

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Språk i Norge – Store norske leksikon”. ngày 22 tháng 5 năm 2019.
  2. ^ “Minoritetsspråk”. Språkrådet. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2018.
  3. ^ a b 9 tháng 3 năm 2020 “Immigrants and their children as of ngày 1 tháng 1 năm 2020” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Statistics Norway. ngày 9 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2020.[liên kết hỏng]
  4. ^ kirkedepartementet, Fornyings-, administrasjons- og (ngày 16 tháng 6 năm 2006). “Samer”. Regjeringen.no.
  5. ^ inkluderingsdepartementet, Arbeids- og (ngày 16 tháng 6 năm 2006). “Nasjonale minoriteter”. Regjeringen.no.
  6. ^ The Constitution of Norway, Article 16 (English translation, published by the Norwegian Parliament) Lưu trữ 2015-09-08 tại Wayback Machine
  7. ^ Church of Norway Statistics Norway 17.5.2020
  8. ^ 8 tháng 12 năm 2020 Members of religious and life stance communities outside the Church of Norway, by religion/life stance. Statistics Norway 8.12.2019
  9. ^ regjeringen.no (ngày 5 tháng 7 năm 2011). “The Re-establishing of a Norwegian State”. Government.no.
  10. ^ “Population, 2024-01-01” (bằng tiếng Anh). Statistics Norway. 21 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2024.
  11. ^ a b c “Arealstatistics for Norway 2019”. Kartverket, mapping directory for Norway. ngày 20 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2020.
  12. ^ “Surface water and surface water change”. Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD). Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  13. ^ a b c d “Norway”. International Monetary Fund.
  14. ^ “Gini coefficient of equivalised disposable income”. ec.europa.eu. Eurostat – EU-SILC survey. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2019.
  15. ^ “2022 Human Development Index Ranking” (bằng tiếng Anh). United Nations Development Programme. 13 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ “Population”. Statistics Norway. ngày 22 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2018.
  17. ^ Norway, Study in. “Norwegian Society / Living in Norway / StudyinNorway / Home – Study in Norway”. www.studyinnorway.no. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2019.
  18. ^ “UPDATE 1-Statistics Norway raises '07 GDP outlook, cuts '08”. Reuters. ngày 6 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  19. ^ “Country Comparison:: Crude oil – production”. CIA – The World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
  20. ^ “Country Comparison:: Natural gas – production”. CIA – The World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
  21. ^ “The World's Richest Countries”. forbes.com. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014.
  22. ^ “The World Factbook”. Central Intelligence Agency Library. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  23. ^ Holter, Mikael (ngày 27 tháng 6 năm 2017). 19 tháng 9 năm 2017/norway-wealth-fund-says-reached-1-trillion-in-value “The World's Biggest Wealth Fund Hits $1 Trillion” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Bloomberg L.P. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  24. ^ “Democracy Index 2016”. eiu.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2017.
  25. ^ Norway, Study in. “Why Norway? / Living in Norway / StudyinNorway / Home – Study in Norway”. www.studyinnorway.no. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2019.
  26. ^ RF Foster: "The Oxford History of Ireland", Oxford University Press, 1989
  27. ^ “[The black death in Norway]”. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  28. ^ Wong, Curtis M. (14 tháng 12 năm 2010)
  29. ^ Sida/Så arbetar vi/EIU_Democracy_Index_Dec2011.pdf Democracy index 2011 Lưu trữ 2012-06-17 tại Wayback Machine. Economist Intelligence Unit Retrieved ngày 27 tháng 8 năm 2013.
  30. ^ Davidson, Kavitha A. (21 tháng 3 năm 2013)
  31. ^ “The Constitution – Complete text”. The Storting's Information Corner. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2011.
  32. ^ “The King's constitutional role”. The Royal Court of Norway. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2009.
  33. ^ a b “The Monarchy”. Norway.org. ngày 24 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  34. ^ “The Storting”. Norway.org. ngày 10 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2012.
  35. ^ Nordsieck, Wolfram (2011). “Parties and Elections in Europe”. parties-and-elections.de. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2011. Storting, 4-year term, 4% threshold (supplementary seats)
  36. ^ “The Government”. Norway.org. ngày 10 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2010.
  37. ^ “Form of Government”. Norway.org. ngày 10 tháng 9 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  38. ^ “Political System of Norway”. 123independenceday.com. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2010.
  39. ^ “Political System”. Norway.org. ngày 18 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2010.
  40. ^ Bevanger, Lars (ngày 10 tháng 9 năm 2013). “Norway election: Erna Solberg to form new government”. BBC. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
  41. ^ a b “The Judiciary”. Norway.org. ngày 10 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2012.
  42. ^ Worldwide Press Freedom Index 2007, Phóng viên không biên giới.
  43. ^ “Global Corruption Barometer 2013-Norway”. Transparency International. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.
  44. ^ Anders Breivik: Nhà tù Na Uy cushy thế nào? BBC
  45. ^ “List of Norwegian embassies at the website of the Norwegian ministry of foreign affairs”. ngày 6 tháng 2 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
  46. ^ “Refleksjoner fra Brussel – Hospitering ved Sørlandets Europakontor – Vest-Agder Fylkeskommune”. Intportal.vaf.no. ngày 4 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2013.
  47. ^ a b c “Fylkesinndelingen fra 2024” (bằng tiếng Na Uy). Regjeringen. 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  48. ^ “Local Government”. Norway.org. ngày 10 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2010.
  49. ^ Rapp, Ole Magnus (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Norge utvider Dronning Maud Land helt frem til Sydpolen”. Aftenposten (bằng tiếng Na Uy). Oslo, Norway: Aftenposten. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2015. ...formålet med anneksjonen var å legge under seg det landet som til nå ligger herreløst og som ingen andre enn nordmenn har kartlagt og gransket. Norske myndigheter har derfor ikke motsatt seg at noen tolker det norske kravet slik at det går helt opp til og inkluderer polpunktet.
  50. ^ Baltais, Simon (2010). “Environment And Economy: Can They Co-Exist In The "Smart State"?”. Issues. 91: 21–24. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2019.
  51. ^ a b Central Intelligence Agency. “Norway”. The World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  52. ^ “Human Development Index 2009” (PDF). Human Development Report. hdr.undp.org. ngày 5 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2009.
  53. ^ “Labour force survey, seasonally-adjusted figures, September 2016”. Statistics Norway. tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2016.
  54. ^ “Statistical Yearbook of Norway 2013, Table 144: National Insurance. Disability pension, by county. ngày 31 tháng 12 năm 2012”. Ssb.no. ngày 31 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
  55. ^ “Dette er Norge” (bằng tiếng Na Uy). Statistics Norway. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2013.
  56. ^ Bureau of Labor Statistics. “International Comparisons of GDP per Capita and per Hour, 1960–2010” (PDF). Division of International Labor Comparisons. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2016.
  57. ^ http://www.bls.gov/news.release/ichcc.t01.htm
  58. ^ Central Intelligence Agency. “Country Comparison: Distribution of Family Income – GINI Index”. The World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  59. ^ " Na Uy ", Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
  60. ^ “Norway becomes first country to ban deforestation”.
  61. ^ /d: LOV-ngày 27 tháng 11 năm 1992-109:d/ EØS-loven – EØSl
  62. ^ a b c Ole Mathismoen (5 tháng 8 năm 2013) Aftenposten p. 5
  63. ^ a b Lindeberg, Anne (ngày 6 tháng 9 năm 2013). “Her er Norges nye oljeprovins”. Dn.no. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
  64. ^ “Gass- og oljefunn nord for Snøhvitfeltet i Barentshavet – 7220/8-1”. Npd.no. ngày 1 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
  65. ^ “FAO Globefish global trends 2006”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
  66. ^ “Mener Norge bør satse på våpen når oljen tar slutt – VG Nett om Stoltenberg-regjeringen”. Vg.no. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  67. ^ handelsdepartementet, Nærings- og (ngày 18 tháng 5 năm 2000). “Norsk næringsvirksomhet - Strukturen i norsk økonomi”. Regjeringen.no (bằng tiếng Na Uy). Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2018.
  68. ^ “Norsk næringsliv”. ssb.no (bằng tiếng Na Uy (Bokmål)). Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2018.
  69. ^ “Binge and purge”. The Economist. ngày 22 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2009. 98–99% of Norway's electricity comes from hydroelectric plants.
  70. ^ “Mineral Resources in Norway in 2013” (PDF).
  71. ^ “Majority in Favor of High-Speed Trains”. Theforeigner.no. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2011.
  72. ^ Skjeggestad, Sveinung Berg Bentzrød Helene (ngày 7 tháng 3 năm 2011). “De aller fleste sier ja takk til lyntog”. Aftenposten (bằng tiếng Na Uy (Bokmål)). Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2019.
  73. ^ a b c Statistics Norway. “Transport”. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  74. ^ “Travel survey”. Statistics Norway (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2018.
  75. ^ [1]
  76. ^ Cục quản lý đường sắt quốc gia Na Uy, 2008: 4
  77. ^ a b Norwegian National Rail Administration. “About”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  78. ^ Cục quản lý đường sắt quốc gia Na Uy, 2008: 13
  79. ^ Cục quản lý đường sắt quốc gia Na Uy, 2008: 16
  80. ^ Norges Statsbaner. “Train facts”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  81. ^ a b c Central Intelligence Agency (2008). “Norway”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  82. ^ Bộ Giao thông vận tải Na Uy, 2003: 15
  83. ^ “Share of Diesel in New Passenger Cars - Click Norway, mouseover for numbers”. European Automobile Manufacturers Association. ngày 25 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2017.
  84. ^ Agence France-Presse (ngày 15 tháng 5 năm 2011). “Electric cars take off in Norway”. The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011.
  85. ^ European Association for Battery, Hybrid and Fuel Cell Electric Vehicles (AVERE) (ngày 3 tháng 9 năm 2012). “Norwegian Parliament extends electric car iniatives [sic] until 2018”. AVERE. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2013.
  86. ^ Ole Henrik Hannisdahl (ngày 9 tháng 1 năm 2012). “Eventyrlig elbilsalg i 2011” [Adventurous electric vehicle sales in 2011] (bằng tiếng Na Uy). Grønn bil. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2012.
  87. ^ Staff (ngày 2 tháng 4 năm 2014). “Elbilsalget i mars slo alle rekorder” [Electric vehicle sales in March broke all records] (bằng tiếng Na Uy). Grønn bil. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014.
  88. ^ Alister Doyle and Nerijus Adomaitis (ngày 13 tháng 3 năm 2013). “Norway shows the way with electric cars, but at what cost?”. Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2013.
  89. ^ “Ladbare biler i Norge des, 2014” [Rechargeable cars in Norway December 2014] (bằng tiếng Na Uy). Grønn bil. tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  90. ^ Avinor. “About Avinor”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  91. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên avinorpassengers
  92. ^ Norwegian Ministry of Transport. “Lokal kollektivtransport” (bằng tiếng Na Uy). Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  93. ^ Norwegian Ministry of Transport. “Kollektivtransport” (bằng tiếng Na Uy). Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.
  94. ^ Statistics Norway (ngày 3 tháng 1 năm 2008). “Buss” (bằng tiếng Na Uy). 3 tháng 1 năm 2008-02.html Bản gốc Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  95. ^ NOR-WAY Bussekspress. “Selskapene” (bằng tiếng Na Uy). Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2008.[liên kết hỏng]
  96. ^ a b c Norwegian Coastal Administration. “The Norwegian Coastal Administration”. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  97. ^ Norwegian Coastal Administration. “Offentlige havner i Norge” (bằng tiếng Na Uy). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  98. ^ Shippingfacts (2007). “Top 20 beneficial ownership countries (January 2007)”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  99. ^ Statistics Norway (ngày 3 tháng 1 năm 2008). “Båt” (bằng tiếng Na Uy). 3 tháng 1 năm 2008-03.html Bản gốc Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  100. ^ Gassco. “About Gassco”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2008.
  101. ^ Eivind Bråstad Jensen. 1991. Fra fornorskningspolitikk mot kulturelt mangprint. Nordkalott-Forlaget.
  102. ^ I. Bjørklund, T. Brantenberg, H. Eidheim, JA Kalstad và D. Storm. 2002.
  103. ^ “26 tháng 4 năm 2012-04-en.html”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  104. ^ a b c Questions about immigrant-related statistics (ngày 20 tháng 6 năm 2013). “Key figures Immigration and immigrants – SSB”. Ssb.no. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2014.
  105. ^ a b c d 25 tháng 4 năm 2013 12 prosent av befolkningen er innvandrere[liên kết hỏng] Statistics Norway (tiếng Na Uy) retrieved ngày 26 tháng 4 năm 2013
  106. ^ 26 tháng 4 năm 2012-03-en.html. Thống kê Na Uy. 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012. 28 tháng 4 năm 2011-02-en.html Lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  107. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên innvbef
  108. ^ [2] Lưu trữ 2017-06-20 tại Wayback Machine, Reuters. Ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  109. ^ Bureau, U.S. Census. “American FactFinder – Results”. factfinder.census.gov.[liên kết hỏng]
  110. ^ “Population: Key figures for the population”. ssb.no. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  111. ^ Statistics Canada (ngày 8 tháng 5 năm 2013). “2011 National Household Survey: Data tables”. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2014.
  112. ^ Ladegaard, Isac (ngày 7 tháng 5 năm 2012). “Polish workers get stuck in stereotype”. Science Nordic. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2019.
  113. ^ 2 tháng 3 năm 2017#content “Immigrants and Norwegian-born to immigrant parents, ngày 1 tháng 1 năm 2017” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Statistics Norway. ngày 2 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017. See Table 3 "Population by immigrant category and country background", sum of columns "Immigrants" and "Norwegian-born to immigrant parents".
  114. ^ “Population and quarterly changes, Q4 2012”. Statistics Norway. ngày 21 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  115. ^ “Immigrants and Norwegian-born to immigrant parents, ngày 1 tháng 1 năm 2012”. Statistics Norway. ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  116. ^ 26 tháng 4 năm 2012-01-en.html “Population ngày 1 tháng 1 năm 2011 and 2012 and changes in 2011, by immigration category and country background” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Statistics Norway. 2012. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.[liên kết hỏng]
  117. ^ “Error”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  118. ^ More members in religious and philosophical communities
  119. ^ United Nations (tháng 11 năm 2012). Human Development Report 2013. United Nations Development Programme (UNDP). ISBN 978-92-1-126340-4.
  120. ^ Nordhagen, R; Major, E; Tverdal, A; Irgens, L; Graff-Iversen, S (2014). “Folkehelse i Norge 1814–2014”. Folkehelseinstituttet. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2014.
  121. ^ [3]
  122. ^ “Søk”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2007. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  123. ^ /d: LOV-ngày 21 tháng 5 năm 1999-30:d/ Menneskerettsloven – mnskrl
  124. ^ Isolasjon i fengsel er tortur - Aftenposten
  125. ^ “Søk”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2007. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  126. ^ Aslaug Moksnes. Likestilling eller særstilling? Norsk kvinnesaksforening 1884–1913 (p. 35), Gyldendal Norsk Forlag, 1984, ISBN 82-05-15356-6
  127. ^ “The Constitution – Complete text”. Stortinget.no. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2011.
  128. ^ Toivanen, Reetta; và đồng nghiệp (2003). Götz, Norbert (biên tập). Civil Society in the Baltic Sea Region. Ashgate Publishing, Ltd. tr. 205–216. ISBN 978-0-7546-3317-4.
  129. ^ “Journal of Indigenous People Rights. Issue No. 3/2005” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2015.
  130. ^ “Knock-out fra Northug & co”. Dagbladet. ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  131. ^ “Stor interesse for ishockey”. NRK. ngày 13 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2016.
  132. ^ “FIFA/Coca-Cola World Ranking”. FIFA. ngày 22 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  133. ^ “Carlsen er verdensmester: – Jeg er lykkelig og lettet”. NRK. ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  134. ^ “Bandy destined for the Olympic Winter Games!”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2019.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng