Bước tới nội dung

Nguyễn Phúc Hồng Y

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thụy Thái vương
瑞太王
Hoàng tử nhà Nguyễn
Thông tin chung
Sinh11 tháng 9 năm 1833
Mất23 tháng 2 năm 1877 (44 tuổi)
An tángLăng Thụy Thái vương
Thê thiếpLê Thị Ứng
Trần Thị Nga
và nhiều thiếp thất khác
Hậu duệDục Đức
42 con trai và 24 con gái
Tên húy
Nguyễn Phúc Hồng Y
阮福洪依
Tên tự
Quân Bác (君博)
Thụy hiệu
Đôn Chính Thụy Thái vương
敦正瑞太王
Tước vịKiến Thụy công
Kiến Thụy Quận vương
Thụy (Thoại) Thái vương
Thân phụNguyễn Hiến Tổ
Thiệu Trị
Thân mẫuThục phi
Nguyễn Thị Xuyên

Nguyễn Phúc Hồng Y (chữ Hán: 阮福洪依, 11 tháng 9 năm 183323 tháng 2 năm 1877), tôn hiệu Thụy Thái vương (瑞太王) (còn được đọc trại thành Thoại Thái vương), biểu tự Quân Bác (君博), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Ông được biết đến là thân phụ của vua Dục Đức, tổ phụ của vua Thành Thái và là tằng tổ phụ của vua Duy Tân.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng tử Hồng Y sinh ngày 28 tháng 7 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), là con trai thứ ba của vua Thiệu Trị, mẹ là là Nhị giai Thục phi Nguyễn Thị Xuyên[1]. Hồng Y là anh em cùng mẹ với An Mỹ Công chúa Huy Nhu và hoàng tử Hồng Kỳ (mất sớm). Thuở nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, lúc lớn học rộng kinh sử, văn chương xuất sắc, rất được vua yêu[2].

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua ngự giá ra Bắc làm lễ bang giao, sai Hồng Y cùng hoàng tử Hồng Nhậm (vua Tự Đức sau này) cùng đi. Ông hầu bên cạnh cẩn thận, khi hồi kinh được vua cha ban khen[2].

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ chưa được phong tước tất cả 10 người vào làm thơ ở điện Đông Các[3]. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Phó, Hồng Y, Hồng Tố, Hồng Hưu và các hoàng đệ Miên Tằng, Miên Kiền, Miên Lâm đều trúng cách[4].

Tháng 3 (âm lịch) năm đó, vua phong tước ban thưởng cho cả 7 hoàng thân được trúng cách, hoàng tử Hồng Y được phong làm Kiến Thụy công (建瑞公)[4]. Các hoàng thân được phong tước lần đầu thường chỉ làm Quận công hoặc Quốc công, nhưng Hồng Y lại được đặc cách phong ngay đến tước Thân công, chứng tỏ ông rất được vua cha ưu ái.

Tháng 9 (âm lịch) cùng năm, Thái hoàng Nhân Tuyên ngày một yếu đi, viện Thái y dâng thuốc có chút công hiệu nên Quản viện Vũ Quýnh, Viện sứ Trần Viết Cật, Y chính Hoàng Đức Hạ đều được gia thưởng. Vua mừng, sai bộ Lễ đến tế ở miếu Tiên Y, cho thân công Hồng Y đến tế ở đền Thọ Quốc công (tước phong của ông Trần Hưng Đạt, cha của bà Nhân Tuyên), Hữu tham tri bộ Lễ là Tôn Thất Tĩnh đến tế ở đền họ Trần[5].

Tháng 12 (âm lịch), vua Thiệu Trị đến cung Từ Thọ làm lễ Tốt khốc của Thái hoàng Nhân Tuyên. Ngày 22 tháng đó gặp lễ Hợp hưởng ở các miếu, bộ Lễ xin ngày ấy sai quan làm lễ ở cung Từ Thọ, ngày 23 hôm sau mới làm lễ Tốt khốc[6]. Vua thấy không hợp lễ, cho là làm lễ Tốt khốc xong rồi làm lễ Hợp hưởng mới hợp nghi văn, rồi lấy ngày 25 tháng đó, sai Kiến Thụy công Hồng Y đến cung Từ Thọ, thay vua làm lễ Hợp hưởng, lại sai Hoằng Trị công Hồng Tố đến điện Gia Thành (nơi thờ bà Nhân Tuyên trong lăng Gia Long) kính cẩn làm lễ[6].

Đầu thời Tự Đức, hoàng đệ Hồng Y cùng với người chú là Tùng Thiện Quận vương Miên Thẩm vào hầu vua ở vườn tập bắn. Vua nhân đó ra đề "Quí đông tân tình, hậu uyển tập xạ" (Cuối đông trời nắng ra vườn sau tập bắn), sai làm bài liên cú (tức mỗi người làm một câu ghép thành một bài thơ), được vừa ý vua[2][7].

Năm Tự Đức thứ 2 (1849), vua đến nhà Thái học, thân công Hồng Y theo hầu, dâng lên vua bài Thị học thi (Quan sát việc học), được vua ngợi khen và cho chép vào tập thơ Tích Ung Canh Ca hội tập của Hồng Y[2][7].

Năm Tự Đức thứ 3 (1850), thầy học của các hoàng thân là Võ Xuân Cẩn, đồng thời là cha vợ của vua, dâng sớ nói: "Các hoàng thân phần nhiều chỉ thích chơi đùa, không đến nghe giảng". Vua sai phủ Tôn Nhân xét duyệt thì 4 hoàng thân là Miên Sạ, Hồng Y, Hồng TốHồng Truyền đều chỉ đến nghe giảng có 4 ngày, nên bị phạt lương 3 tháng[8]. Một số hoàng thân khác cũng bị phạt lương vì việc này.

Năm Tự Đức thứ 11 (1858), Kiến Thụy công Hồng Y vì tội bọn thuộc lại trong phủ vào điện Hiếu Tư (nơi thờ vua Minh Mạng) nên bị phạt lương 1 năm[9]. Vua thương ông thiếu thốn, chuẩn cho đem phần thưởng trước để khấu trừ vào phần phạt[9].

Vua Tự Đức không thể có con do mắc di chứng của bệnh đậu mùa, nên năm thứ 21 (1868) mới chọn con trai thứ hai của hoàng đệ Hồng Y là công tử Ưng Ái (sau này là vua Dục Đức) vào ở viện Tập hiền cũ để nuôi, sai quan Nội các dạy học, năm ấy công tử 17 tuổi[10].

Năm Tự Đức thứ 25 (1872), Kiến Thụy công Hồng Y lên thọ 40 tuổi, vua đem phẩm vật trong kho và ngự chế 2 bài thơ ban cho ông[2]. Thơ rằng[7]:

Bài I:

Phiên âm:
Giới đệ thân trung hậu
Do nhi phân ngoại vinh
Văn chương sư Tử Kiến
Đức nghiệp mộ Đông Bình
Lực thiêm niên cận tráng
Thân nhàn phước dị tinh
Quý dư đa bất cập
Tứ tuế thiểm vi huynh
Dịch nghĩa:
Trung hậu vốn tính trời sinh,
Em yêu nhỏ tuổi, nổi danh trong ngoài
Văn chương Tử Kiến[11] kém tài
Đức hạnh xem cũng sánh vai Đông Bình[12]
Càng già sức khỏe càng tinh
Thân nhàn mà được phước sinh vô cùng
Thẹn rằng ta chẳng ngang bằng
Nhờ hơn bốn tuổi mà thành ra anh.

Bài II:

Phiên âm:
Ngô đệ tuy rằng chúng
Duy quân khả kết minh
Tài nhân duyên học thực
Đức mậu đắc lân tình
Thu nguyệt tam bôi tửu
Xuân phong nhất trạo khinh
Gia đình chân lạc sự
Thế thượng tẩn phù danh.
Dịch nghĩa:
Em ta tuy thật là đông
Chỉ có mình chú đáng cùng kết minh
Học hành nổi tiếng tài danh
Lại thêm đức hạnh vang quanh tiếng đồn
Trời thu dăm chén rượu ngon
Gió xuân một chiếc thuyền con nhẹ nhàng
Gia đình êm ấm an khang
Phù danh đâu dễ buộc ràng tấm thân.

Năm Tự Đức thứ 30 (1877), ngày 11 tháng 1 (âm lịch)[7], Kiến Thụy công Hồng Y qua đời, thọ 45 tuổi, vua thương tiếc, nghỉ triều 8 ngày, truy tặng cho ông làm Kiến Thụy Quận vương (建瑞郡王), ban thụyTuệ Đạt (慧達)[2][13]. Hoàng trưởng tử Ưng Chân (tức Ưng Ái) đặt hương án ở nhà sau Dục Đức đường, mặc phục tang, đứng vào hàng cháu làm lễ, đến khi an táng Hồng Y, vua đích thân làm bài văn tế[13].

Lăng của quận vương Hồng Y được táng ở phường Hương Vân, Hương Trà (xưa kia thuộc làng Lai Thành). Phủ thờ của ông hiện nằm trên đường Chi Lăng (thuộc phường Gia Hội, Huế).

Tháng 3 (âm lịch) năm Thành Thái thứ 9 (1889), vua Thành Thái truy tôn cho tổ phụ làm Kiến Thụy Thái vương (建瑞太王) (hay được biết đến là Thoại Thái vương), cải thụy thành Đôn Chính (敦正), nguyên cơ Lê Thị Ứng làm Kiến Thụy Thái vương phi (建瑞太王妃)[14].

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Thái vương Hồng Y là người hay thơ giỏi chữ. Các tác phẩm thơ văn của ông đều được người chú là Tuy Lý vương Miên Trinh tổng hợp lại thành một bộ sách với đề tựa là Tuần Cai biệt thự hợp tập.

Gia quyến

[sửa | sửa mã nguồn]

Thê thiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Thái vương Hồng Y còn nhiều thất thiếp khác chưa rõ tên.

Hậu duệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Thái vương có 43 con trai và 24 con gái[2]. Ông được ban cho bộ chữ Hương (香) để đặt tên cho các con cháu trong phòng[17], nhưng sau này do kỵ húy của bà Học phi Nguyễn Văn Thị Hương, mẹ nuôi của vua Kiến Phúc mà cải thành bộ Thạch (石). Dưới đây liệt kê tên của một số người con được biết đến của Vương:

  • Nguyễn Phúc Ưng Khánh (1851 – ?), trước có tên là Ưng Hinh, mẹ là Lê Thị Ứng, công tử trưởng[15], tập phong làm Kiến Thụy Quận công[2].
  • Nguyễn Phúc Ưng Ái (23 tháng 2 năm 18526 tháng 10 năm 1883), công tử thứ ba, mẹ là Trần Thị Nga, làm hoàng tử đổi tên thành Ưng Chân, tức vua Dục Đức.
  • Nguyễn Phúc Ưng Phức (1852 – ?), công tử thứ tư, mẹ là Nguyễn Hữu Thị Ngộ[15].
  • Nguyễn Phúc Ưng Phi (1852 – ?), công tử thứ sáu, mẹ là Nguyễn Văn Thị Thái[15].
  • Nguyễn Phúc Ưng Phù (hoặc Đồ) (1854 – ?), công tử thứ chín, mẹ là Nguyễn Văn Thị Thái[15].
  • Công nữ Thiện Niệm, vợ của ông Diệp Văn Cương. Vì Thành Thái là cháu gọi bà bằng cô nên ông Cương mới giúp Thành Thái lên ngôi[18].
  • Hai công nữ tên là Thiện Nam và Thiện Nữ, con của bà Trần Nhị Nương[16].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.350
  2. ^ a b c d e f g h i Đại Nam liệt truyện, tập 3, quyển 8 – phần Thụy Thái Vương Hồng Y
  3. ^ Đại Nam thực lục, tập 6, tr.818
  4. ^ a b Đại Nam thực lục, tập 6, tr.846
  5. ^ Đại Nam thực lục, tập 6, tr.918
  6. ^ a b Đại Nam thực lục, tập 6, tr.948
  7. ^ a b c d Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.352
  8. ^ Đại Nam thực lục, tập 7, tr.164
  9. ^ a b Đại Nam thực lục, tập 7, tr.544
  10. ^ Đại Nam thực lục, tập 7, tr.1146
  11. ^ Tào Thực, tự Tử Kiến, con của Tào Tháo, giỏi làm thơ, đi 7 bước đã ứng khẩu đọc được bài thơ.
  12. ^ Đông Bình vương, con trai thứ tám của Hán Quang Vũ Đế, là người hiếu thiện. Vua thường ngày hỏi ông trị gia như thế nào là hạnh phúc nhất, ông đáp: "Thiện tối lạc".
  13. ^ a b Đại Nam thực lục, tập 8, tr.217
  14. ^ Đại Nam thực lục, phụ biên, mục 0739
  15. ^ a b c d e f g Đại Nam thực lục, tập 7, tr.1310
  16. ^ a b “Làm rõ vụ phá hoại bia mộ mẹ vua Dục Đức”. Báo Thanh Niên. 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2020.
  17. ^ Đại Nam thực lục, tập 7, tr.216
  18. ^ Trần Quỳnh Cư, Trần Việt Quỳnh (2006), Các đời vua chúa nhà Nguyễn: Chín chúa, Mười ba vua, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tr.193