Twice
Twice | |
---|---|
Twice vào tháng 9 năm 2022 Từ trái sang phải: Jihyo, Mina, Chaeyoung, Jeongyeon, Tzuyu, Nayeon, Momo, Sana và Dahyun | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Nguyên quán | Seoul, Hàn Quốc |
Thể loại | |
Năm hoạt động | 2015 | –nay
Hãng đĩa | |
Hợp tác với | JYP Nation, MISAMO |
Thành viên | |
Website | twice |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 트와이스 |
Romaja quốc ngữ | Teuwaiseu |
McCune–Reischauer | T'ŭwaisŭ |
Twice (Tiếng Hàn: 트와이스; Romaja: Teuwaiseu; tiếng Nhật: トゥワイス, Hepburn: To~uwaisu; thường được viết cách điệu là TWICE) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc do JYP Entertainment thành lập và quản lý vào năm 2015, bao gồm 9 thành viên: Nayeon, Jeongyeon, Momo, Sana, Jihyo, Mina, Dahyun, Chaeyoung và Tzuyu. Twice được thành lập trong chương trình truyền hình Sixteen và chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 10 năm 2015, với EP The Story Begins.
Twice trở nên nổi tiếng trong nước vào năm 2016 với đĩa đơn "Cheer Up", đứng ở vị trí số một trên Gaon Digital Chart, trở thành đĩa đơn có thành tích tốt nhất trong năm và giành giải "Bài hát của năm" tại Melon Music Awards và Mnet Asian Music Awards. Đĩa đơn tiếp theo của họ, "TT", trích từ EP thứ ba Twicecoaster: Lane 1, đứng đầu bảng xếp hạng Gaon trong bốn tuần liên tiếp. EP này là album của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc bán chạy nhất năm 2016. Trong vòng 19 tháng sau khi ra mắt, Twice đã bán được hơn 1,2 triệu bản trong số 4 EP và album của họ. Tính đến cuối năm 2021, Twice đã bán được hơn 7,29 triệu bản album tại Hàn Quốc vào năm 2019. Tính đến tháng 12 năm 2020, nhóm đã bán được hơn 10 triệu bản album tại Hàn Quốc và Nhật Bản.
Nhóm ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 28 tháng 6 năm 2017 dưới sự quản lý của Warner Music Japan, với việc phát hành một album tổng hợp mang tên #Twice. Album đứng ở vị trí thứ 2 trên Oricon Albums Chart với lượng bán album trong tuần đầu tiên cao nhất của một nghệ sĩ K-pop ở Nhật Bản trong hai năm. Tiếp theo là phát hành đĩa đơn gốc tiếng Nhật đầu tiên của Twice mang tên "One More Time" vào tháng 10. Twice trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên được chứng nhận Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho cả album và đĩa đơn CD trong cùng năm. Twice đứng thứ ba trong hạng mục Nghệ sĩ hàng đầu của Billboard Japan vào năm 2017 và năm 2019, họ trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên thực hiện chuyến lưu diễn tại Nhật Bản.
Twice đã gặt hái được nhiều thành công trên thị trường quốc tế, khi trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc đầu tiên đứng đầu cả bảng xếp hạng Billboard World Albums và World Digital Song Sales khi phát hành album phòng thu đầu tiên Twicetagram và đĩa đơn chủ đạo "Likey" vào năm 2017. Với việc phát hành đĩa đơn "Feel Special" vào năm 2019, Twice đã trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc thứ ba lọt vào bảng xếp hạng Canadian Hot 100. Sau khi ký hợp đồng với Republic Records cho các hoạt động quảng bá tại Mỹ trong khuôn khổ hợp tác với JYP Entertainment, nhóm đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 với More & More và Eyes Wide Open vào năm 2020, Taste of Love và Formula of Love: O+T=<3 vào năm 2021. Đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của Twice, "The Feels", đã trở thành bài hát đầu tiên của họ lọt vào Billboard Hot 100 và UK Singles Chart, lần lượt đạt vị trí thứ 83 và 80 trên các bảng xếp hạng này. Họ được mệnh danh là "Nhóm nhạc nữ quốc dân" tiếp theo, vũ đạo trong các bài hát của nhóm - bao gồm "Cheer Up" (2016), "TT" (2016), "Signal" (2017) và "What Is Love?" (2018) - nhanh chóng trở thành cơn sốt vũ đạo và các meme lan truyền được nhiều người nổi tiếng bắt chước.
Sự nghiệp
2013–2015: Quá trình hình thành và ra mắt
Ngày 19 tháng 12 năm 2013, JYP Entertainment thông báo sẽ cho ra mắt một nhóm nhạc nữ mới trong nửa đầu năm 2014; đây sẽ là nhóm nhạc nữ tiếp theo do công ty tạo ra sau khi họ đã ra mắt Miss A vào năm 2010.[1] Ngày 27 tháng 2 năm 2014, hai thực tập sinh JYP là Lena và Cecilia đã được xác nhận là thành viên của nhóm, trong khi đó có tin đồn cho rằng các thành viên khác sẽ là những thực tập sinh của JYP như Nayeon, Jeongyeon, Jisoo (sau này cô đổi tên thành Jihyo) và Minyoung.[2][3] Dù vậy kế hoạch ra mắt nhóm sau đó đến cuối cùng đã bị hủy bỏ do sự rời đi của hai thực tập sinh Lena và Cecilia.[4]
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2015, Park Jin-young đã thông báo rằng sắp tới sẽ ra mắt một nhóm nhạc nữ 7 thành viên và sẽ được quyết định thông qua Sixteen, một chương trình cạnh tranh sống còn được phát sóng trên kênh Mnet vào cuối năm.[5] Chương trình bắt đầu vào ngày 5 tháng 5 và kết thúc với đội hình 7 thành viên ban đầu gồm: Nayeon, Jeongyeon, Sana, Jihyo, Mina, Dahyun và Chaeyoung. Tuy nhiên, JYP cho rằng nhóm sẽ hoàn hảo hơn nếu tăng thành viên từ 7 lên 9 và quyết định chọn thêm Tzuyu theo ý kiến của khán giả vì cô là thí sinh nổi tiếng nhất trước khi chương trình kết thúc và Momo theo ý kiến của Park Jin Young vì ông nghĩ nhóm cần thêm một nhân tố có khả năng vũ đạo xuất sắc như Momo. Quyết định này gây tranh cãi vào lúc đó vì nhiều người phàn nàn về việc thí sinh đã bị loại lại có thể vào nhóm.[6][7][8]
Ngày 7 tháng 10, JYP Entertainment ra mắt trang web chính thức của nhóm và thông báo qua các trang mạng xã hội nhóm sẽ ra mắt với EP The Story Begins và bài hát chủ đề "Like Ooh-Ahh". Ca khúc được mô tả mang âm hưởng color pop dance với các yếu tố như hip-hop, rock và R&B.[9][10] Trong đội ngũ sáng tác có cả Black Eyed Pilseung, nổi tiếng nhờ cho ra những ca khúc thành công tiêu biểu như "Only You" của Miss A.[11][12] Album và video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 20 tháng 10. Nhóm còn tổ chức một showcase trực tiếp trong cùng một ngày, nơi họ biểu diễn tất cả các ca khúc trong EP.[13][14][15] The Story Begins gia nhập bảng xếp hạng Gaon Album Chart hàng tuần ở vị trí thứ tư và leo lên vị trí thứ ba hai tuần sau đó trong khi ca khúc chủ đề ra mắt ở vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart và leo lên vị trí thứ 10 sau ba tháng ra mắt.[16][17][18][19] Bài hát cũng lọt vào Billboard World Digital Song Sales ở vị trí thứ sáu.[20] Video âm nhạc ra mắt của nhóm đạt 50 triệu lượt xem trong vòng 5 tháng ra mắt, đã trở thành một trong những video âm nhạc ra mắt của các nhóm nhạc K-pop có lượt xem nhiều nhất trên YouTube.[21][22][23] Ngày 12 tháng 2, Twice nhận được đề cử và giải thưởng lần đầu tiên trong sự nghiệp tại Mnet Asian Music Awards 2015 với giải Nữ nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[24][25][26] Ngày 27 tháng 12, nhóm biểu diễn một phiên bản remix của ca khúc "Like Ooh-Ahh" trên SBS Gayo Daejeon, đây là lần đầu tiên Twice tham gia vào một chương trình âm nhạc cuối năm.[27][28]
2016–2017: Sự nổi tiếng, chuyến lưu diễn đầu tiên, ra mắt tại Nhật Bản
Ngày 11 tháng 4 năm 2016, JYP Entertainment đã thông báo trên Facebook và các trang mạng xã hội của Twice rằng nhóm sẽ phát hành mini album thứ hai mang tên Page Two và ca khúc chủ đề "Cheer up".[29] Ngày 25 tháng 4, Twice phát hành EP thứ hai Page Two bao gồm ca khúc chủ đề "Cheer Up", là phiên bản remake của bản hit năm 1998 "Precious Love" của Park Ji-yoon và "I'm Gonna Be A Star" được xem như ca khúc chủ đề của chương trình Sixteen.[30][31] "Cheer Up" ngay khi ra mắt đã nhanh chóng leo lên vị trí số một trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart và vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales chỉ trong tuần đầu ra mắt.[32][33][34] Bài hát đạt thành công thương mại lớn khi xếp vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart năm 2016 vào cuối năm.[35] Page Two cũng lần lượt leo lên vị trí á quân và vị trí thứ sáu trên các bảng xếp hạng Gaon Album Chart và Billboard World Albums.[36][37] Ngày 5 tháng 5, Twice chính thức giành được chiếc cúp chiến thắng chương trình âm nhạc đầu tiên đầu tiên trên M! Countdown trong đợt quảng bá ca khúc "Cheer Up", tròn một năm kể từ ngày Sixteen lên sóng.[38] Sau đó, họ liên tục giành chiến thắng trên Music Bank và Inkigayo.[39] Đến tháng 8, EP thứ hai Page Two của Twice đã bán được hơn 150.000 bản giúp Twice trở thành nhóm nhạc nữ đầu tiên đạt kỷ lục bán hơn 100.000 bản trong năm ấy.[40]
Trong lễ kỷ niệm tròn một năm Twice chính thức ra mắt vào ngày 20 tháng 10, nhóm đã công bố bài hát mới "One in a Million" từ EP thứ ba sắp tới, Twicecoaster: Lane 1, thông qua một chương trình phát sóng trực tiếp trên V Live.[41] Ngày 24 tháng 10, Twicecoaster: Lane 1 và video âm nhạc của bài hát chủ đề "TT" thuộc thể loại dance pop dịu êm và vui tươi được phát hành trực tuyến.[42][43] Sau khi ra mắt, "TT" đã giữ vững vị trí quán quân trong bốn tuần liên tiếp trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart cũng như đạt được vị trí á quân trên Billboard World Digital Song Sales.[44][45] Ca khúc sau này đã đứng ở vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100 năm 2017 và là bài hát tiếng Hàn duy nhất góp mặt trong bảng xếp hạng.[46] Twicecoaster: Lane 1 cũng góp mặt vào Gaon Album Chart ở vị trí quán quân và gia nhập Billboard World Album ở vị trí thứ ba.[47][48] Album sau đó đạt doanh số 350.852 bản bán ra tại Hàn Quốc vào cuối năm 2016, trở thành album của nhóm nhạc nữ K-pop bán chạy nhất năm đó.[49][50] "TT" sau đó trở thành video âm nhạc đầu tiên của một nữ nghệ sĩ K-pop vượt mốc 200 triệu lượt xem vào ngày 25 tháng 5 năm 2017.[51]
Vào ngày 11 tháng 11, video âm nhạc "Like Ooh-Ahh" của nhóm đạt 100 triệu lượt xem trên YouTube đã đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ thứ tư của K-pop đạt được 100 triệu lượt xem và cũng là video âm nhạc đầu tay của nhóm nhạc K-pop đạt được cột mốc này.[52] Sáu ngày sau, video âm nhạc "Cheer Up" của Twice cũng đạt được thành tích tương tự.[53] Ngày 19 tháng 11, "Cheer Up" của Twice đã giành được giải Bài hát của năm tại Lễ trao giải Melon Music Awards lần thứ 8. Tiếp sau đó là giải thưởng Bài hát của năm tại Lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 18 vào ngày 2 tháng 12.[54][55] Cùng năm đó, "TT" cũng trở thành video đầu tiên của nữ nghệ sĩ K-pop vượt qua 200 triệu lượt xem và đạt 300 triệu lượt xem vào cuối năm.[56][57]
Ngày 10 tháng 1, JYP Entertainment đã thông báo đến người hâm mộ về tour diễn đầu tiên trong sự nghiệp của Twice chỉ sau một năm bốn tháng ra mắt. Tour lưu diễn của Twice mang tên: "Twice 1st Tour: Twiceland – The Opening" tổ chức trong 3 ngày từ 17 đến 19 tháng 2 tại sân vận động SK Olympic Handball Gymnasium đã bán sạch vé. Tour diễn được tổ chức đi qua Bangkok, Thái Lan vào ngày 8 tháng 4 và Singapore vào ngày 29 tháng 4 sau điểm dừng đầu tiên là Seoul.[58][59][60][61] Sau chuyến lưu diễn, Twice phát hành một album đặc biệt vào ngày 20 tháng 2 với tên gọi Twicecoaster: Lane 2 cùng với ca khúc chủ đề "Knock Knock". Đây là album tái phát hành của Twicecoaster: Lane 1.[62][63]
Twice ra mắt trang web và các kênh truyền thông xã hội khác bằng tiếng Nhật vào đầu tháng 2.[64][65] Vào ngày 24 tháng 2, nhóm chính thức công bố rằng họ sẽ ra mắt tại Nhật với album tổng hợp mang tên #Twice phát hành vào ngày 28 tháng 6 năm 2017.[66][67] Ngày 15 tháng 5, Twice phát hành EP thứ tư Signal với ca khúc chủ đề cùng tên do Park Jin-young sản xuất. Điều này đánh dấu sự hợp tác đầu tiên của nhóm với Park Jin-young. EP bao gồm 6 ca khúc, trong đó "Eye Eye Eyes" được thành viên Jihyo và Chaeyoung đồng viết lời, và "Only You" do cựu thành viên Ha:tfelt của Wonder Girls sáng tác.[68][69]
Ngày 14 tháng 6, Twice phát hành bản nhạc số "Signal (Japanese ver.)" cùng với video âm nhạc phiên bản ngắn, được xem là bản preview để đếm ngược đến thời điểm phát hành album tiếng Nhật đầu tay của họ. Một tuần sau, nhóm phát hành video âm nhạc đầy đủ của "TT" phiên bản tiếng Nhật.[70][71] Nhóm chính thức ra mắt tại Nhật Bản với việc phát hành #Twice vào ngày 28 tháng 6. Nó có 10 bài hát, bao gồm cả phiên bản tiếng Hàn và tiếng Nhật của năm đĩa đơn đầu tiên của nhóm.[72] Vào ngày 2 tháng 7, Twice đã tổ chức showcase ra mắt mang tên "Touchdown in Japan" tại Tokyo Metropolitan Gymnasium với sự tham dự của tổng cộng 15.000 người.[73][74][75] #Twice ra mắt ở vị trí thứ 2 trên Oricon Albums Chart với 136.157 bản được bán trong vòng bảy ngày kể từ khi phát hành.[76] Ngày 18 tháng 10, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên "One More Time".[77][78][79] Đĩa đơn đạt được doanh số bán hàng lớn nhất trong ngày đầu tiên và là đĩa đơn bán chạy nhất của bất kỳ nhóm nhạc nữ Hàn Quốc tại Nhật Bản nào tính đến thời điểm đó.[80][81] Cả #Twice và "One More Time" đều được chứng nhận Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ).[82] Đĩa đơn "TT (Japanese ver.)" nằm trong album tổng hợp #Twice cũng đã được RIAJ trao chứng nhận vàng đĩa đơn kỹ thuật số khi nhận được 100.000 bản tải về.[83] Sau đó, cả #Twice và "TT (Japanese ver.)" đều thắng giải Album của năm và Bài hát thuộc khu vực châu Á của năm tính theo lượt tải về tại lễ trao giải Japan Gold Disc Award lần thứ 32.[84][85]
Vào ngày 30 tháng 10, Twice phát hành album phòng thu tiếng Hàn đầu tiên của nhóm, Twicetagram với ca khúc chủ đề "Likey". Video âm nhạc đã được quay ở Canada vào đầu tháng 9.[86][87] "Likey" được sáng tác bởi Black Eyed Pilseung và Jeon Gun. Đây là lần hợp tác thứ tư của nhóm với Black Eyed Pilseung. Tham gia sáng tác vào album này còn bao gồm các thành viên Hàn Quốc của Twice với vai trò phổ lời và cựu thành viên Hyerim của Wonder Girls, là người đồng sáng tác ca khúc thứ tám "Look at Me".[88][89] Album và bài hát chủ đề này lần lượt đứng đầu hai bảng xếp hạng của Billboard World Albums và World Digital Song Sales, là vị trí quán quân đầu tiên của nhóm, đưa Twice trở thành nữ nghệ sĩ K-pop đầu tiên dẫn đầu cả hai bảng xếp hạng này. Nhóm cũng xuất hiện trong bảng xếp hạng Heatseekers Albums với album ra mắt ở vị trí thứ 10, cao hơn một bậc so với thứ hạng cao nhất của Signal ở vị trí thứ 11.[90] Ngày 11 tháng 12, album tái phát hành của Twicetagram phiên bản Giáng sinh mang tên Merry & Happy với ca khúc chủ đề "Heart Shaker" được phát hành.[91][92]
Ngày 16 tháng 11, một thông báo chính thức được công bố qua cuộc họp báo ở Tokyo rằng nhóm sẽ tham dự chương trình Kōhaku Uta Gassen lần thứ 68, một lễ hội âm nhạc cuối năm có tỉ suất xem cao tại Nhật do NHK tổ chức.[93] Lễ hội diễn ra trực tiếp tại NHK Hall ngày 31 tháng 12, với màn trình diễn "TT (Japanese ver.)" của Twice. Twice là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên tham gia sự kiện này trong sáu năm qua và là nhóm nhạc K-pop thứ tư sau TVXQ, Kara và Girls' Generation.[94][95][96]
2018–2019: Duy trì độ nổi tiếng và các chuyến lưu diễn
Đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai của Twice "Candy Pop" được phát hành trước vào ngày 12 tháng 1 năm 2018 và CD đĩa đơn được ra mắt vào ngày 7 tháng 2. Nhóm cũng đã tổ chức chuyến lưu diễn đầu tiên của họ tại Nhật Bản mang tên Twice Showcase Live Tour 2018 "Candy Pop", bắt đầu từ ngày 19 tháng 1 tại tỉnh Aichi.[97][98] Ngày 9 tháng 4, Twice phát hành EP thứ 5 mang tựa đề What Is Love? cùng với ca khúc chủ đề cùng tên được sáng tác bởi Park Jin Young.[99] Album bán ra 335.235 bản trong tháng đầu tiên phát hành và giúp Twice trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên đồng thời là nghệ sĩ thứ năm đạt được chứng nhận Bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Nội dung Âm nhạc Hàn Quốc (KMCA) khi bán ra được hơn 250.000 bản.[100][101] Ngày 16 tháng 5, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba mang tên "Wake Me Up" và đạt được chứng nhận bạch kim kép của RIAJ.[82][102] Chuyến lưu diễn thứ hai của nhóm: Twiceland Zone 2 – Fantasy Park đã bắt đầu khởi động tại Seoul vào ba ngày từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 5[103][104] thu hút hơn 90.000 người hâm mộ ở 6 thành phố khắp châu Á.[105]
Twice đã tái hiện lại bản cover "I Want You Back" của The Jackson 5 làm nhạc phim chính cho bộ phim Nhật Bản Sensei Kunshu. Ngày 15 tháng 6, bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn kĩ thuật số cùng với video âm nhạc.[106][107] Ngày 26 tháng 6, phiên bản video âm nhạc khác có sự kết hợp với dàn diễn viên bộ phim được phát hành.[108] Vào tháng 7, album tái phát hành của What Is Love? mang tên Summer Nights được phát hành cùng với ca khúc chủ đề "Dance the Night Away" do Wheesung viết lời.[109] Đĩa đơn cũng đạt được hơn 100 triệu lượt nghe trực tuyến và 2.500.000 lượt tải về trên Bảng xếp hạng Âm nhạc Gaon, mang về cho nhóm hai chứng nhận Bạch kim lần lượt dựa trên lượng người nghe trực tuyến và lượt tải về, giúp Twice trở thành nghệ sĩ thứ hai đạt được các chứng nhận Bạch kim của KMCA tính theo lượng nghe trực tuyến, lượt tải về và doanh số album kể từ khi hệ thống chứng nhận đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 2018.[101][110][111]
Vào ngày 12 tháng 9, Twice phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên BDZ. Đĩa đơn cùng tên đã được phát hành trước dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 17 tháng 8.[112][113] Theo sau đó là chuyến lưu diễn của nhóm mang tên Twice 1st Arena Tour 2018 "BDZ", bắt đầu tại Chiba vào ngày 29 tháng 9.[114] Album đã nhận chứng nhận bạch kim RIAJ, là chứng nhận bạch kim thứ năm liên tiếp của nhóm tại Nhật Bản.[115] Ngày 5 tháng 11, Twice trở lại với EP thứ 6 Yes or Yes cùng với ca khúc chủ đề cùng tên.[116][117] Video âm nhạc của ca khúc chủ đề thu được 31,4 triệu lượt xem trên YouTube trong ngày đầu ra mắt, trở thành video âm nhạc có lượt xem trong ngày đầu cao thứ bảy trên nền tảng này tính tại thời điểm đó.[118][119][120]
Twice phát hành album đặc biệt mang tên The Year of "Yes" vào ngày 12 tháng 12 năm 2018, cùng với đĩa đơn dẫn đường "The Best Thing I Ever Did". Đây là phiên bản album tái phát hành của Yes or Yes.[121] Nhóm cũng ra mắt album tái phát hành BDZ với một ca khúc bổ sung có tựa đề "Stay by My Side", là bài hát chủ đề của loạt phim truyền hình Nhật Bản Shinya no Dame Koi Zukan vào ngày 26 tháng 12. "Stay by My Side" được phát hành dưới định dạng đĩa đơn kỹ thuật số trước đó vào ngày 22 tháng 10 kèm với một video âm nhạc quay lại cảnh các thành viên đang thu âm cho bài hát.[122] Ngày 6 tháng 3 năm 2019, nhóm phát hành album tổng hợp tiếng Nhật thứ hai #Twice2.[123]
Twice trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên trong lịch sử tổ chức Dome tour (chuyến lưu diễn tại các sân vận động có mái vòm lớn) tại Nhật Bản với chuyến lưu diễn Twice Dome Tour 2019 "#Dreamday". Chuyến lưu diễn thu về 220.000 lượt người đến theo dõi với năm buổi trình diễn ở Osaka, Tokyo và Nagoya được tổ chức từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2019. Tất cả 220.000 vé đã được bán hết chỉ sau khi phòng vé mở cửa một phút.[124][125][126] Ngày 22 tháng 4, nhóm phát hành EP thứ bảy của họ Fancy You.[127][128] Video âm nhạc của ca khúc chủ đề cùng tên đạt được 42,1 triệu lượt xem trên nền tảng YouTube chỉ trong vỏn vẹn một ngày, đứng ở vị trí thứ bảy trong số các video âm nhạc có lượt xem cao nhất trong ngày đầu ra mắt.[129] Với việc phát hành Fancy You, Twice đã trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc tẩu tán được nhiều album nhất mọi thời đại khi bán ra tổng cộng 3.750.000 bản với 12 album phát hành tại quê nhà, vượt qua kỉ lục đã tồn tại suốt 20 năm của nhóm nhạc nữ S.E.S.[130] Twice cũng đã bán ra xấp xỉ 6 triệu bản album trên toàn cầu.[131]
Ngày 12 tháng 6 năm 2019, Twice phát hành hai đĩa đơn tiếng Nhật "Happy Happy" và "Breakthrough" mang các sắc thái âm nhạc khác nhau ở định dạng kỹ thuật số.[132] Ngày 17 tháng 7, JYP Entertainment thông báo mở thêm các buổi lưu diễn tại Nhật Bản sau khi các buổi hòa nhạc thuộc khuôn khổ chuyến lưu diễn Twicelights Tour đã thu hút được mười nghìn người hâm mộ tham gia tại thị trường Bắc Mỹ và Đông Nam Á.[133][134][135] Nhóm sẽ mở thêm mười hai buổi lưu diễn trải dài trên bảy thành phố ở Nhật Bản bắt đầu từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020.[136] Cùng ngày, định dạng đĩa cứng của "Happy Happy" được nhóm phát hành và "Breakthrough" cũng được phát hành một tuần sau đó.[132] Cả hai đĩa đơn đều giành được chứng nhận Bạch kim của RIAJ.[82][137]
Ngày 23 tháng 9 năm 2019, Twice phát hành EP thứ tám Feel Special cùng với video âm nhạc cho đĩa đơn mở đường cùng tên do Park Jin-young sáng tác.[138][139] Đĩa đơn này đã giúp nhóm có được vị trí quán quân thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales sau thành tích từng đạt được trước đó với "Likey". "Feel Special" cũng giúp mở rộng sự tiếp cận của nhóm đối với thị trường Bắc Mỹ khi ra mắt tuần đầu ở vị trí thứ 82 trên Canadian Hot 100 — và là đĩa đơn đầu tiên của nhóm lọt vào bảng xếp hạng này, giúp Twice trở thành nhóm nhạc nữ K-pop thứ ba và là nghệ sĩ K-pop thứ 9 gia nhập vào bảng xếp hạng.[140] Ngày 30 tháng 9 năm 2019, Twice phá kỉ lục doanh số bán ra trong tuần đầu của nhóm với Feel Special, với doanh số cao nhất trước đó thuộc về Fancy You.[141][142] Twice công bố phát hành album phòng thu tiếng Nhật thứ hai &Twice vào ngày 20 tháng 11 năm 2019. Đĩa đơn dẫn đường cho album "Fake & True" được phát hành trước dưới dạng kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 10 năm 2019.[143][144][145]
Chỉ tính trong năm 2019, Twice đã đạt doanh số bán ra hơn một triệu bản trên bảng xếp hạng Gaon, đồng thời giữ vững thành tích này trong ba năm liên tiếp.[146][147] Tại Nhật Bản, Twice đã vượt mốc doanh thu kỷ lục 5 tỷ yên trong năm 2019.[148] Nhóm cũng là nghệ sĩ nước ngoài bán chạy nhất và xếp thứ tư chung cuộc hạng mục "Nghệ sĩ bán chạy" (Artist Sales) dựa theo Bảng xếp hạng hằng năm của Oricon lần thứ 52.[148] Theo Billboard Japan, Twice xếp vị trí thứ năm hạng mục "Nghệ sĩ xuất sắc" (Top Artist) trên bảng xếp hạng cuối năm 2019.[149] Nhóm đã đạt thứ hạng này trong ba năm liên tiếp.[150][151] Twice cũng là nghệ sĩ có lượng nghe trực tuyến trên Spotify nhiều thứ năm tại quốc gia này.[152][153]
2020: Quảng bá tại Hoa Kỳ, Twice: Seize the Light, More & More và Eyes Wide Open
Vào tháng 3 năm 2020, nhóm tiếp tục thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới "Twicelights" tại Tokyo Dome.[154][155][156] Buổi biểu diễn khép lại do chuyến lưu diễn mang tên World Tour Twicelights Finale ban đầu được dự định tổ chức tại Seoul vào ngày 7 và 8 tháng 3 năm 2020 tại KSPO Dome,[157] nhưng sau đó đã bị hủy do đại dịch COVID-19.[158] Vào ngày 24 tháng 2, có thông báo rằng nhóm đã ký hợp đồng với Republic Records nhằm quảng bá tại Hoa Kỳ, là một phần trong mối quan hệ đối tác của JYP Entertainment với hãng đĩa này.[159]
Trong cùng tháng, loạt phim tài liệu Twice: Seize the Light được công chiếu lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 4 thông qua YouTube Originals, gồm chín tập theo chân các thành viên trong nhóm trong suốt quá trình thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên "Twicelights".[160] Vào ngày 20 tháng 4, có thông tin rằng nhóm đang chuẩn bị phát hành một album tiếng Hàn vào tháng 6. Mini album tiếng Hàn thứ 9 của nhóm More & More được phát hành vào ngày 1 tháng 6 với đĩa đơn cùng tên.[161] Album được Gaon ghi nhận đã bán ra 550.000 bản, là album bán chạy nhất của Twice cho đến hiện tại mà đồng thời cũng là album nhóm nhạc nữ bán chạy nhất ở Hàn Quốc trong 20 năm qua.[162] Album đạt vị trí 200 trên bảng xếp hạng Billboard 200 trong tuần đầu ra mắt, đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thứ tư lọt vào bảng xếp hạng sau Girls' Generation, 2NE1 và Blackpink. Nhóm cũng lần đầu gia nhập bảng xếp hạng Billboard Artist 100 khi ra mắt tại vị trí 96.[163]
Vào ngày 9 tháng 8, Twice đã tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến đầu tiên mang tên "TWICE: World In A Day" nhằm thay thế "Twicelights World Tour Finale" đã bị hủy bỏ vào đầu năm. Nhóm đã làm việc với nền tảng Beyond LIVE do SM Entertainment và Naver phát triển cho buổi hòa nhạc, trở thành nghệ sĩ đầu tiên ngoài SM Entertainment tổ chức một buổi hòa nhạc trực tuyến bằng nền tảng này.[164]
Có thông tin cho rằng vào cuối tháng 9 nhóm sẽ chuẩn bị ra mắt một album phòng thu mới, nhóm đã phát hành album phòng thu tiếng Hàn thứ hai, Eyes Wide Open, vào ngày 26 tháng 10 với đĩa đơn chủ đạo mang tên "I Can't Stop Me".[165][166] Hai tháng sau khi phát hành Eyes Wide Open, album đã ra mắt ở vị trí thứ 72 trên Billboard 200 của Mỹ, đánh dấu vị trí cao nhất của nhóm trên bảng xếp hạng vượt qua More & More, đồng thời đưa Twice trở thành nhóm nhạc nữ K-pop thứ ba lọt vào top 100 của bảng xếp hạng này, sau 2NE1 và Blackpink.[167]
Sau đó, Twice hợp tác với nhóm nhạc nữ ảo K/DA, các thành viên Nayeon, Sana, Jihyo và Chaeyoung sẽ góp mặt trong bài hát "I'll Show You" như một phần của EP đầu tiên của K/DA All Out được phát hành vào ngày 6 tháng 11. Cả bốn thành viên của nhóm cũng đã biểu diễn bài hát này cùng với ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Bekuh Boom và Annika Wells.[168][169]
Sau đó, Twice đã phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ bảy của họ có tựa đề "Better" vào ngày 11 tháng 11 ở định dạng tải xuống và phát trực tuyến kỹ thuật số, trong đó có "Scorpion" với tư cách là B-side, sau đó được phát hành vật lý vào ngày 18 tháng 11.[170] Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 3 trên Billboard Japan Hot 100 với doanh số 93.548 bản từ ngày 16 đến 22 tháng 11.[171] Sau đó, nhóm đã có màn ra mắt trên truyền hình Hoa Kỳ với sự xuất hiện của họ trên loạt chương trình "#PlayAtHome" của The Late Show With Stephen Colbert vào ngày 30 tháng 11, biểu diễn ca khúc "I Can't Stop Me".[172]
Vào ngày 1 tháng 12, có thông tin cho rằng Twice đã đạt doanh số bán đĩa tổng cộng hơn 5,81 triệu album trên Gaon. Tính đến doanh số bán hàng của nhóm tại Nhật Bản, Twice đã vượt quá 10 triệu bản album được bán ở cả hai quốc gia.[173] Trong lần xuất hiện tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards 2020 vào ngày 6 tháng 12, Twice đã bất ngờ trình diễn ca khúc chưa phát hành mang tên "Cry For Me", được nhóm mô tả như một món quà dành cho người hâm mộ, bài hát chính thức được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 12.[174] Bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Digital Song Sales Chart vào ngày 2 tháng 1 năm 2021, và cũng trở thành bài hát thứ ba của nhóm có mặt trên Billboard Global Excluding US Chart khi ra mắt ở vị trí thứ 122.[175][176]
2021–nay: Các hoạt động hiện tại và mở rộng ra thị trường quốc tế
Vào ngày 28 tháng 1, Twice góp mặt trong chuỗi sự kiện Time 100 Talks do tạp chí Time tổ chức thông qua hình thức phát sóng trực tiếp, tại đây nhóm đã có buổi biểu diễn đặc biệt ca khúc "Depend On You" nằm trong album Eyes Wide Open.[177]
Vào ngày 6 tháng 3, nhóm đã tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến thứ hai mang tên "Twice in Wonderland", được công bố lần đầu tiên vào ngày 14 tháng 1. Buổi hòa nhạc có sự hợp tác với NTT Docomo và được phát sóng bằng nhiều công nghệ khác nhau bao gồm AR (thực tế tăng cường) và MR (thực tế hỗn hợp). Vào cuối buổi hòa nhạc trực tuyến, Twice đã thông báo về việc phát hành đĩa đơn tiếng Nhật sắp tới "Kura Kura" vào ngày 12 tháng 5.[178][179] "Kura Kura" đã được phát hành trước trên các nền tảng phát nhạc trực tuyến vào ngày 20 tháng 4. Video âm nhạc của nó cũng được phát hành cùng ngày.[180]
Vào ngày 19 tháng 4, JYP Entertainment đã thông báo về mini-album sắp tới của nhóm dự kiến phát hành vào tháng 6 năm 2021.[180] Vào ngày 28 tháng 4, Twice xuất hiện trên The Kelly Clarkson Show với màn trình diễn đĩa đơn "Cry For Me" của họ.[181] EP tiếng Hàn thứ mười của nhóm, Taste of Love, phát hành vào ngày 11 tháng 6. "Alcohol-Free", đĩa đơn chủ đạo của EP, đã được phát hành trước vào ngày 9 tháng 6, cùng với video âm nhạc của nó.[182] Sau khi phát hành video âm nhạc, tổng số lượt xem trên YouTube đã vượt mốc 20 triệu chỉ sau 24 giờ đầu tiên.[183] Trong tuần cuối cùng vào ngày 17 tháng 6, Taste of Love ra mắt ở vị trí thứ 6 trên Billboard 200, trở thành album đầu tiên của Twice lọt vào top 10 tại Hoa Kỳ với 46.000 đơn vị tương đương. Trong số đó, EP đã bán được 43.000 bản vật lý, trở thành album bán chạy nhất tuần ở Mỹ. Với điều này, Twice trở thành nghệ sĩ nữ Hàn Quốc đầu tiên có EP lọt vào top 10 của Billboard 200 và là nghệ sĩ nữ Hàn Quốc thứ hai có album lọt vào top 10 của bảng xếp hạng này.[184]
Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba của nhóm, Perfect World, phát hành vào ngày 28 tháng 7. Nó bao gồm 10 bài hát, bao gồm đĩa đơn chủ đạo "Perfect World" và ba đĩa đơn trước đó, "Fanfare", "Better" và "Kura Kura".[185]
Nhóm đã phát hành đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của họ, "The Feels", vào ngày 1 tháng 10.[186] Ở cuối video âm nhạc cho đĩa đơn, cũng được phát hành vào ngày 1 tháng 10, album phòng thu tiếng Hàn thứ ba (tổng thể thứ sáu) và chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ tư của họ đã được hé lộ.[187] Vào ngày 11 tháng 10, "The Feels" ra mắt ở vị trí thứ 83 trên Billboard Hot 100, đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của nhóm trên bảng xếp hạng này.[188] Bài hát còn lọt vào UK Singles Chart, nơi nó đạt vị trí thứ 80.[189] Album phòng thu tiếng Hàn thứ ba của nhóm, Formula of Love: O+T=<3, phát hành vào ngày 12 tháng 11 với ca khúc chủ đề, "Scientist".[190] Album đạt vị trí thứ 3 trên Billboard 200, phá vỡ kỷ lục trước đó của Taste of Love.[191]
Vào ngày 15 tháng 11, nhóm đã công bố năm buổi diễn đầu tiên ở Bắc Mỹ trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới thứ tư của họ, "III".[192] Họ bắt đầu chuyến lưu diễn với một buổi hòa nhạc kéo dài hai ngày tại Seoul vào ngày 25–26 tháng 12.[193] Vào ngày 3 tháng 12, Twice đã phát hành trước đĩa đơn tiếng Nhật thứ chín của họ, "Doughnut", cùng với một video âm nhạc đi kèm. Nó được phát hành vào ngày 15 tháng 12 tại Nhật Bản.[194] Với việc hoàn thành bảy đêm diễn tại Hoa Kỳ trong chuyến lưu diễn “III” kết thúc vào ngày 27 tháng 2 năm 2022, Twice đã trở thành nghệ sĩ nữ K-pop đầu tiên tổ chức hai arena tour (biểu diễn tại nhà thi đấu lớn) riêng biệt ở thị trường âm nhạc lớn nhất thế giới, thu hút số lượng khán giả khoảng 100.000 người. Ban đầu, chỉ có một buổi diễn ở LA và NY được công bố, nhưng buổi biểu diễn thứ hai đã nhanh chóng được mở thêm ở cả hai nơi này do nhu cầu cao sau khi cháy vé.[195] Sau thành công của tour diễn tại Mỹ, Twice đã công bố một buổi hòa nhạc encore tại Sân vận động Banc of California ở Los Angeles, đưa họ trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có một buổi hòa nhạc tại sân vận động ở Hoa Kỳ. Ban đầu nhóm thông báo chỉ có một đêm diễn duy nhất vào ngày 14 tháng 5, họ đã quyết định tổ chức thêm một buổi diễn nữa vào ngày 15 tháng 5 do nhu cầu cao.[196][197] Ngoài ra, nhóm dự kiến tổ chức buổi hòa nhạc tại Tokyo Dome ở Nhật Bản trong hai ngày 23 và 24 tháng 4, nhưng do vé đã được bán hết trong thời gian ngắn nên họ đã bổ sung thêm một suất diễn vào ngày 25. Với ba buổi diễn cháy vé tại Tokyo Dome, Twice trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên và là nhóm nhạc nữ thứ hai (sau AKB48) tổ chức một buổi hòa nhạc kéo dài ba ngày tại địa điểm nói trên.[198][199]
Vào ngày 12 tháng 7 năm 2022, đại diện của JYP Entertainment cho biết tất cả 9 thành viên đã gia hạn hợp đồng với công ty quản lý.[200] Sau đó 1 ngày, nhóm thông báo sẽ quay trở lại ngay trong tháng 8 với mini album thứ 11 mang tên BETWEEN 1&2[201] vào ngày 26 tháng 8. Vào ngày 21 tháng 12, có thông báo rằng Twice sẽ phát hành đĩa đơn tiếng Anh mở đường " Moonlight Sunrise " vào ngày 20 tháng 1 năm 2023, và EP tiếng Hàn thứ mười hai của họ, Ready to Be vào ngày 10 tháng 3 năm 2023
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, JYP Entertainment cho ra mắt nhóm nhạc nhỏ (sub-unit) của TWICE là MISAMO, gồm 3 thành viên người Nhật: Mina, Sana và Momo cùng với mini album đầu tay của nhóm, Masterpiece.
Phong cách nghệ thuật
Twice gây chú ý nhờ việc theo đuổi hình tượng "dễ thương", bên cạnh dòng nhạc bubblegum pop nổi bật của nhóm, được coi là sự phá bỏ phong cách âm nhạc cổ điển thường thấy ở các nhóm nhạc nữ tiền bối cùng công ty như Wonder Girls hay Miss A. Nhóm đã phát triển một phong cách âm nhạc "color pop" đặc trưng với sự kết hợp giữa rock, R&B và hip hop cùng những đoạn hook bắt tai trong các sản phẩm âm nhạc của họ.[204] Nền tảng âm nhạc "vui vẻ" được thể hiện cùng với phong cách thời trang đầy màu sắc của các thành viên và việc nhấn mạnh vào hình ảnh trẻ trung của nhóm, Twice đã chuyển đổi sang phong cách trưởng thành hơn khi phát hành "Fancy" và "Breakthrough" chứng kiến nhóm thực hiện vũ đạo gợi cảm và sử dụng âm nhạc electropop mạnh mẽ hơn so với trước.[205] Kể từ đó, họ đã thử nghiệm các yếu tố EDM, synth-pop và retro soul trong EP thứ tám Feel Special; tropical house, latin pop và new jack swing trong EP thành công nhất More & More; retro-synth, dance-pop, city pop và R&B đương đại trong album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Eyes Wide Open.[206][207][208]
Nhóm còn được biết đến với việc kết hợp văn hóa trực tuyến hiện đại vào các ca khúc và video âm nhạc của họ. Ví dụ, đĩa đơn năm 2016 "TT" đặt theo tên biểu tượng cảm xúc đang khóc được mô phỏng trong vũ đạo điểm nhấn của nhóm, trong khi ca khúc năm 2017 "Likey" ám chỉ văn hóa Instagram và những cuộc đấu tranh để duy trì một bức ảnh đẹp trên mạng xã hội.[205][209] Trong video âm nhạc cho đĩa đơn năm 2018 "What Is Love?", nhóm đã tham khảo một số bộ phim bao gồm The Princess Diaries, Ghost, La Boum, Pulp Fiction, Romeo + Juliet, Love Letter, La La Land và Leon: The Professional.[210]
Hình ảnh công chúng và đón nhận
Với mức độ nổi tiếng trong công chúng và cộng đồng người hâm mộ lớn, Twice có nhiều ca khúc hit liên tiếp. Chính vì những thành công trên, Twice được gán với những tên gọi như "Nhóm nhạc nữ xu hướng hàng đầu".[211] Nhóm cũng nhận được nhiều lời ca ngợi vì khả năng làm việc theo nhóm của họ cùng với vẻ thu hút độc đáo và riêng biệt của các thành viên.[212][213][214][215] Nghệ sĩ nam giới thường chiếm ưu thế về doanh số bán đĩa do cộng đồng người hâm mộ rất lớn, nhưng Twice đã vượt qua ranh giới giới tính và tuổi nghề khi EP thứ hai của họ trở thành album bán chạy nhất của một nhóm nhạc nữ K-pop và là album bán chạy thứ năm trong năm 2016.[216][217] Twice đứng đầu danh sách video âm nhạc phổ biến nhất trên YouTube Hàn Quốc trong hai năm liên tiếp với "Cheer Up" (2016) và "Knock Knock" (2017).[218]
Twice xếp thứ hai trong top 10 nghệ sĩ của cuộc khảo sát Gallup Hàn Quốc trong hai năm liên tiếp.[219][220][221] Năm 2016, Twice được nhắc đến trong danh sách "Những người có sức ảnh hưởng lớn đến giới trẻ năm 2016" của tạp chí Variety, danh sách hàng năm này thường gồm những diễn viên, nhà sáng tạo nội dung kĩ thuật số, nhạc sĩ và các nghệ sĩ trẻ khác, những người đã có ảnh hưởng đến showbiz trong năm vừa qua. Nhóm đứng ở vị trí 54, cũng là nhóm nhạc K-pop duy nhất trong danh sách. Năm 2017, Twice góp mặt trong Forbes Korea Power Celebrity, đứng thứ ba chung cuộc và đứng ở vị trí dẫn đầu trong số các nghệ sĩ thu âm. Họ cũng xuất hiện ở vị trí thứ 18 và là nghệ sĩ châu Á duy nhất trong bảng xếp hạng 21 Under 21 2017: Music's Next Generation của Billboard, là bảng xếp hạng hàng năm chỉ ra một số giọng hát trẻ nội lực nhất trên thế giới qua các thể loại âm nhạc khác nhau, có tính đến sự nổi tiếng, sự sáng tạo và ảnh hưởng của truyền thông xã hội.[222][223]
Trong cuộc bầu cử Tổng thống Hàn Quốc năm 2017, ứng cử viên và hiện là tổng thống Moon Jae-in từ đảng Dân chủ và ứng cử viên Yoo Seong-min từ đảng Bareun đã sử dụng bài "Cheer Up" của Twice với lời bài hát được sửa đổi cho phù hợp trong chiến dịch tranh cử của họ.[224][225]
Tại Nhật Bản, bất chấp sự vắng bóng của làn sóng Hàn Quốc từ năm 2013, Twice ra mắt thành công vào tháng 6 năm 2017, bằng chứng là doanh số bán hàng rất lớn và đông đảo khán giả cho các sự kiện như KCON, showcase debut và Hi-Touch. Theo các chương trình và cuộc phỏng vấn địa phương, nhóm đã trở nên phổ biến ngay cả trước khi họ ra mắt chính thức, đặc biệt bởi sự có mặt của các thành viên Nhật Bản (Momo, Sana và Mina) như câu nói "các fan có thể liên hệ và cảm thấy gần gũi với họ". NHK News chỉ ra nét đặc trưng của nhóm, là cầu nối quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và Hàn Quốc.[226][227][228][229][230] Twice nhận được sự chú ý khi xuất hiện trên nhật báo lớn nhất nước Nhật, Yomiuri Shimbun, và được miêu tả là "nhân vật chủ chốt mới trong sự thống trị thị trường làn sóng Hàn Quốc tại Nhật", trong khi báo chí Hàn Quốc cũng nhận xét rằng nhóm "đang khơi dậy lại sức nóng của K-pop ở Nhật Bản".[231][232][233] Vào tháng 11, Twice xếp vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Breakout Artists 2017 (Những nghệ sĩ đột phá) của Oricon. Họ cũng trở thành nữ nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên đứng đầu cả ba mục xếp hạng dành cho tân binh trong bảng xếp hạng Oricon Ranking hàng năm lần thứ 50. Twice đạt được vị trí số 1 với tổng doanh số của một nghệ sĩ tân binh năm 2017, đạt 1,54 tỷ yen, cũng như những vị trí số 1 lần lượt trong số những album và đĩa đơn bán ra với #Twice và "One More Time".[234][235]
Đồng thời có thông tin cho rằng Twice góp phần cho sự tăng trưởng cổ phần của JYP Entertainment khi cổ phần của JYP gấp 7 lần so với 3 năm trước. Tính từ khi nhóm ra mắt vào năm 2015, cổ phần đã có sự tăng trưởng từ 4,500 won lên 31,400 won vào năm 2018.[236]
Quảng bá
Ngay trước khi Twice ra mắt chính thức, cả chín thành viên đều đã ký kết hợp đồng làm người mẫu độc quyền cho thương hiệu đồng phục trường học Skoolooks cùng với J. Y. Park. Đến tháng 12 năm 2015, Twice đã ký kết 10 hợp đồng CF với tổng thu nhập 1,8 tỷ KRW.[237][238] Vào tháng 2 năm sau, họ là một trong những nhóm nhạc làm đại sứ thương hiệu có tỷ suất phát triển nhanh nhất trong ngành công nghiệp quảng cáo, đạt được 200 triệu won trong 6 tháng và 300 triệu won trong một năm.[239]
Twice là một trong những người nổi tiếng đại diện cho Lotte Duty Free. Họ cũng hợp tác với công ty giày Spris và tạo ra thương hiệu giày của chính mình mang tên "Twice by Spris".[240][241] Vào đầu năm 2017, Twice được hãng sản xuất nước giải khát Donga Otsuka lựa chọn để quảng bá cho sản phẩm đồ uống thể thao hàng đầu của hãng là Pocari Sweat nhân kỷ niệm 30 năm thành lập. Họ trở thành nhóm nhạc thần tượng đầu tiên làm gương mặt đại diện cho sản phẩm này. Pocari Sweat ghi nhận doanh thu 100 tỷ won trong nửa đầu năm này, tăng 10% so với năm 2016.[242][243]
Tính đến năm 2017, Twice đã đại diện cho khoảng 30 thương hiệu khác nhau bao gồm mỹ phẩm, quần áo, trò chơi điện tử trực tuyến, điện thoại di động, thực phẩm và đồ uống, thẻ tín dụng, túi xách và nhiều mặt hàng khác.[244] Quảng cáo thương mại trên truyền hình đầu tiên của Twice tại Nhật Bản là cho Ymobile đã được phát sóng trên toàn quốc từ ngày 2 tháng 2 năm 2018, quảng cáo có sự kết hợp giữa phần cải biên của ca khúc "Y.M.C.A." và kiểu tạo dáng "TT pose" của Twice.[245][246] Năm 2019, Twice trở thành đại sứ thương hiệu Hàn Quốc cho Estée Lauder.[247] Nhóm cũng trở thành "Global Benchsetters" cho hãng quần áo Bench của Philippine.[248][249] Vào tháng 3 năm 2021, Kyungnam Pharmaceuticals thông báo rằng họ đã chọn Twice làm người đại diện cho nhãn hiệu vitamin hàng đầu Lemona.[250] Cuối năm đó, Nintendo Hàn Quốc đã giới thiệu một đoạn video cho thấy Twice chơi tựa game Mitopia trên Nintendo Switch.[251] Vào tháng 8 năm 2021, nhóm được chọn để biểu diễn trong chương trình truyền hình đặc biệt Ngày siêu mua sắm 9.9 của Shopee Philippines tổ chức vào ngày 9 tháng 9.[252] Vào ngày 16 tháng 10 năm 2021, Scarlett Whitening, một thương hiệu làm đẹp nổi tiếng của Indonesia với các sản phẩm làm trắng da, đã giới thiệu Twice với tư cách là đại sứ thương hiệu của họ. Tuy nhiên, nó đã bị người hâm mộ chỉ trích, kêu gọi JYP Entertainment rút lại thỏa thuận này vì việc Twice quảng cáo cho một thương hiệu với các sản phẩm làm trắng da là "trái đạo đức", do "biết rằng họ có những người hâm mộ sở hữu nước da ngăm đen".[253][254]
Thành viên
- Chú thích: In đậm là trưởng nhóm.
Nghệ danh | Tên khai sinh | Ngày sinh | Nơi sinh | Quốc tịch | ||||||
Latinh | Hangul | Kana | Latinh | Hangul | Kana | Hanja | Hán-Việt | |||
Nayeon | 나연 | ナヨン | Im Na-yeon | 임나연 | イム・ナヨン | 林娜璉 | Lâm Nhã Nghiên | 22 tháng 9, 1995 | Gangdong-gu, Seoul, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Jeongyeon | 정연 | ジョンヨン | Yoo Jeong-yeon | 유정연 | ユ・ジョンヨン | 兪定延 | Liễu Đình Duyên | 1 tháng 11, 1996 | Suwon, Gyeonggi, Hàn Quốc | |
Momo | 모모 | もも | Hirai Momo | 히라이 모모 | ひらい もも | 平井桃 | Bình Tỉnh Đào | 9 tháng 11, 1996 | Kyoto, Nhật Bản | Nhật Bản |
Sana | 사나 | さな | Minatozaki Sana | 미나토자키 사나 | みなとざき さな | 湊崎 紗夏 | Thấu Kì Sa Hạ | 29 tháng 12, 1996 | Osaka, Nhật Bản | |
Jihyo | 지효 | ジヒョ | Park Ji-hyo | 박지효 | パク・ジヒョ | 朴志孝 | Phác Chí Hiếu | 1 tháng 2, 1997 | Guri, Gyeonggi, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Mina | 미나 | みな | Myoui Mina | 묘이 미나 | みょうい みな / シャロン 妙い | 名井 南 | Danh Tỉnh Nam | 24 tháng 3, 1997 | San Antonio, Texas, Hoa Kỳ | Nhật Bản |
Dahyun | 다현 | ダヒョン | Kim Da-hyun | 김다현 | キム・ダヒョン | 金多賢 | Kim Đa Hiền | 28 tháng 5, 1998 | Seongnam, Gyeonggi, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Chaeyoung | 채영 | チェヨン | Son Chae-young | 손채영 | ソン・チェヨン | 孫彩瑛 | Tôn Thái Anh | 23 tháng 4, 1999 | Gangdong-gu, Seoul, Hàn Quốc | |
Tzuyu | 쯔위 | ツウィ | Chou Tzu-yu | 조쯔위 | チョウ・ツウィ | 周子瑜 | Chu Tử Du | 14 tháng 6, 1999 | Quận Đông, Đài Nam, Đài Loan | Đài Loan |
Thời gian hoạt động
Vào tháng 7 năm 2019, Mina tạm ngưng các hoạt động nghệ thuật do đột ngột lo lắng và bất an khi biểu diễn trên sân khấu. Cô trở lại vào tháng 2 năm 2020.[255][256][257]
Vào tháng 10 năm 2020, Jeongyeon tạm ngưng mọi hoạt động do chứng rối loạn lo âu.[258] Cô trở lại vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, tại lễ trao Giải thưởng Âm nhạc Seoul lần thứ 30.[259] Vào tháng 8–tháng 11 năm 2021, Jeongyeon lại tiếp tục tạm ngưng hoạt động do chứng hoảng sợ và rối loạn lo âu.[260][261]
Danh sách đĩa nhạc
|
|
Danh sách phim
Phim
Năm | Tựa đề | Vai diễn | Ghi chú |
2018 | Twiceland | Chính mình | Định dạng ScreenX[a][262] |
Chương trình thực tế
Năm | Tựa đề | Kênh | Ghi chú |
2015 | Sixteen | Mnet | Chương trình truyền hình chọn ra các thành viên của Twice. Chương trình bắt đầu phát sóng vào ngày 5 tháng 5 năm 2015 (gồm 10 tập). |
Twice TV | Naver TV Cast, V Live | Mùa đầu của chương trình chủ yếu xoay quanh các thành viên. Phát sóng tập đầu vào ngày 10 tháng 7 năm 2015 và tập cuối vào ngày 8 tháng 8 năm 2015 (gồm 5 tập). | |
Twice TV2 | Phát sóng tập đầu vào ngày 23 tháng 10 năm 2015 và tập cuối vào ngày 25 tháng 12 năm 2015 (gồm 10 tập). | ||
2016 | Twice's Private Life | Mnet | Bắt đầu phát sóng vào ngày 1 tháng 3 năm 2016 (gồm 8 tập). |
Twice TV Begins | V Live | Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "Like Ooh-Ahh". Phát sóng tập đầu vào ngày 29 tháng 6 năm 2016 và tập cuối vào ngày 20 tháng 8 năm 2016 (gồm 8 tập). | |
Twice TV School Meal Club's Great Adventure | School Meal Adventure là mùa đặc biệt với Dahyun, Chaeyoung và Tzuyu (gồm 2 tập). | ||
Twice TV3 | Naver TV Cast, V Live | Các thành viên của Twice đi du lịch đến đảo Jeju trong kì nghỉ của họ. Phát sóng tập đầu vào ngày 29 tháng 4 năm 2016 và tập cuối vào ngày 17 tháng 6 năm 2016 (gồm 8 tập). | |
Twice TV4 | Phát sóng tập đầu vào ngày 31 tháng 10 năm 2016 và tập cuối vào ngày 19 tháng 12 năm 2016 (gồm 8 tập). | ||
Twice TV Special | Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "Knock Knock" và trong chuyến đi đến Australia (gồm 6 tập). | ||
2017 | Twice – Lost: Time | JTBC, V Live | Phát sóng tập đầu vào ngày 16 tháng 1 năm 2017 (gồm 21 tập). |
Twice TV5: Twice in Switzerland | V Live, MBC Every 1, MBC Music[263] | Các thành viên Twice (ngoại trừ Jihyo) du lịch đến Thụy Sĩ trong kì nghỉ. Phát sóng tập đầu vào ngày 22 tháng 5 năm 2017 và tập cuối vào ngày 22 tháng 9 năm 2017 (gồm 24 tập). | |
Twice TV6 | Naver TV Cast, V Live | Các thành viên Twice du lịch đến Singapore trong kì nghỉ. Phát sóng tập đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 2017 và tập cuối vào ngày 16 tháng 12 năm 2017 (gồm 12 tập). | |
2018 | Twice TV 2018 | Naver TV Cast, V Live, YouTube | Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong năm 2018. Phát sóng tập đầu vào ngày 13 tháng 1 năm 2018 (gồm 12 tập). |
Twice TV: What Is Love | Tổng hợp các tập đặc biệt xoay quanh các thành viên trong thời gian quảng bá ca khúc "What Is Love?". Phát sóng tập đầu vào ngày 18 tháng 4 năm 2018 và tập cuối vào ngày 19 tháng 5 năm 2018 (gồm 10 tập). | ||
Twice TV: Dance The Night Away | Phát sóng tập đầu vào ngày 9 tháng 7 năm 2018 (gồm 5 tập). | ||
Twice TV: Yes or Yes | Phát sóng tập đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2018 (gồm 9 tập, 3 tập đặc biệt). | ||
Twice TV: The Best Thing I Ever Did | Phát sóng tập đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 2018 (gồm 2 tập). | ||
2019 | Twice TV: Fancy | Phát sóng tập đầu vào ngày 9 tháng 4 năm 2019 (gồm 15 tập). | |
Twice in Hawaii | AbemaTV | Phát sóng tập đầu vào ngày 19 tháng 7 năm 2019 (gồm 3 tập). | |
Twice TV: Feel Special | Naver TV Cast, V Live, YouTube | Phát sóng tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 9 năm 2019. | |
2020 | TWICE: Seize the Light | YouTube | Phát sóng vào 29 tháng 4 năm 2019 (gồm 8 tập). Sau này, tập 9 (tập đặc biệt) được phát sóng ngày 24 tháng 6 năm 2020. |
TIME TO TWICE | YouTube, V LIVE, Naver TV Cát |
DVD
- Page Two Monograph[264][265]
- 2017 Season's Greetings[266]
- Twicecoaster: Lane 1 Monograph[267]
- Twice 1st Photo Book "One in a Million"[268]
- Twice Super Event[269]
- Twice Debut Showcase "Touchdown in Japan"[270]
- Twicezine: Jeju Island Edition[271]
- Signal Monograph[272]
- 2018 Season's Greetings "First Love"[273]
- Twiceland – The Opening[274]
- Twicetagram Monograph[275]
- Merry & Happy Monograph[276]
- Twiceland – The Opening (Encore)[277]
- Once Begins Twice Fanmeeting[278]
- 2019 Japan Season's Greetings "Twice Airlines"[279]
- 2019 Season's Greetings "The Roses"[280]
- Twiceland Zone 2: Fantasy Park[281]
Lưu diễn
|
|
Giải thưởng và đề cử
Năm 2016, Twice đã giành cúp chương trình âm nhạc đầu tiên với "Cheer Up" vào tập 472 phát sóng ngày 5 tháng 5 của M Countdown.[282] Một năm sau, với tổng cộng 36 chiếc cúp chương trình âm nhạc trong năm 2017, Twice đạt kỷ lục có nhiều cúp chiến thắng nhất trong vòng một năm.[283] Tính đến tháng 5 năm 2018, Twice trở thành nghệ sĩ đầu tiên giành được 7 chiến thắng Triple Crown (chiến thắng vào ba tuần) trên chương trình Inkigayo.[284]
Ở các lễ trao giải thưởng lớn, Twice cũng giành được nhiều giải thưởng lớn và danh giá như Bài hát của năm với "Cheer Up" trong hai giải thưởng âm nhạc lớn là Melon Music Awards và Mnet Asian Music Awards vào năm 2016. Năm 2017, "Signal" trong EP thứ tư cùng tên của Twice đã giành được giải thưởng Bài hát của năm lần thứ hai tại Mnet Asian Music Awards 2017.[285] Twice đã chiến thắng giải thưởng Bài hát của năm lần thứ ba liên tiếp tại Mnet Asian Music Awards 2018 với bài hát "What Is Love?" từ album cùng tên, giúp nhóm trở thành nhóm nhạc nữ duy nhất dành chiến thắng giải thưởng này trong 3 năm liên tiếp.[286]
Ngày 3 tháng 11 năm 2017, Twice nhận được Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tại Korean Popular Culture and Arts Awards,[287] là giải thưởng được tổ chức từ năm 2010 "nhằm vinh danh những đối tượng có đóng góp với văn hoá nhạc pop đương đại và nghệ thuật nói chung, bao gồm các diễn viên, ca sĩ, diễn viên hài, người mẫu".[288] Ngày 19 tháng 8 năm 2019, Twice được thông báo sẽ nhận giải thưởng "Hallyu Culture Grand Prize", còn được gọi là giải thưởng của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc tại Triển lãm Văn hóa Hallyu Newsis 2019 vào ngày 23 tháng 8.[289][290][291]
Ghi chú
- ^ ScreenX là một hệ thống chiếu phim đa chiều cung cấp trải nghiệm xem phim toàn cảnh 270 độ tại rạp.
Chú thích
- ^ Yun, Seong-yeol. “[단독] JYP, 역대급미모 新걸그룹 출격..'내년 상반기·6인조'”. StarNews (bằng tiếng Triều Tiên). StarNews. Truy cập Ngày 7 tháng 7 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Yoon, Seong-yeol. “[단독]'선미 피처링' 리나, JYP新걸그룹 데뷔..미모·실력 겸비”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2015.
- ^ Kim, Jae-heun. “K-pop mogul wants severe competition for girl band”. The Korea Times. The Korea Times. Truy cập Ngày 7 tháng 7 năm 2015.
- ^ “10 Must-Know Facts About K-pop Darlings TWICE”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017.
- ^ Yoo, Ji-hye. “[단독] Mnet-JYP 손잡았다...걸그룹 제작 프로 론칭”. Naver (bằng tiếng Hàn). MBN. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2015.
- ^ Yoon, Hyo-jin. “'식스틴 논란' JYP 측 "모모 추가합격, 완성도 높은 트와이스를 위해 결정" (공식입장)”. Naver (bằng tiếng Hàn). The Financial news. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
- ^ Kim, Min-gi. “JYP측 "트와이스 모모 합류 이유있어…내정설, 사실 아니다"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Money Today. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
- ^ Kang, Seo-jeong. “JYP 측 "논란 겸허히 받아들인다..서툰 점 양해해달라"[공식입장 전문]”. Naver (bằng tiếng Hàn). OSEN. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.
- ^ “TWICE 2015.10.20 THE STORY BEGINS”. Twitter. JYP Entertainment. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
- ^ “The Story Begins”. JYP Entertainment. JYP Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
- ^ “Twice′s Tzuyu and Mina Talk About Adjusting to Life in Korea”. Mwave. Newsen. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015.
|archive-url=
bị hỏng: đường dẫn (trợ giúp) - ^ Hong, Se-yeong. “JYP 측 "신인 걸그룹 트와이스 오는 20일 전격 데뷔" [공식입장]”. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Sports Donga. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2015.
- ^ Kim, Myeong-seon. “트와이스, 평균나이 19세·최강 비주얼 그룹의 탄생”. TV Report (bằng tiếng Hàn). TV Report. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2015.
- ^ Won, Ho-jung. “Twice's 'Story Begins'”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
- ^ Lee, Sang-eun. “트와이스, 데뷔곡 '우아하게' 공개에 눈물바다 "초심 잃지 않겠다"”. Kyeongin Ilbo (bằng tiếng Hàn). Kyeongin Ilbo. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ “2015년 44주차 Album Chart” [Week 44 of 2016 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 13 tháng 5 năm 2016.
- ^ “2015년 46주차 Album Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 13 tháng 5 năm 2016.
- ^ “2015년 44주차 Digital Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
- ^ “2016년 04주차 Digital Chart”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
- ^ “World Digital Song Sales – The week of ngày 2 tháng 1 năm 2016”. Billboard. Truy cập Ngày 15 tháng 8 năm 2017.
- ^ Ahn, Sung-mi. “Twice to return on April 25”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
- ^ Kim, Gyeong-min. “트와이스 '우아하게', 데뷔곡 단일 MV 유튜브 최다 조회수 기록”. Xports News (bằng tiếng Hàn). Xports Media. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016.
- ^ “TWICE's music video hits 50 million”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2016.
- ^ “Best New Female Artist”. Mnet Asian Music Awards. CJ E&M Corp. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ Lee, Nancy. “[2015 MAMA] iKON and Twice Win Best New Artist Awards”. Mwave. CJ Digital Music. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lee, Ji-hyeon. “'골든디스크' 세븐틴-트와이스, JTBC2 신인상 수상 '글로벌 인기'”. Nate (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
- ^ “'가요대전' 트와이스 쯔위, 레드 체크 의상으로 성탄절 분위기 물씬~”. Nate (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
- ^ “[2015 가요대전] 트와이스 'OOH-AHH하게' 참을 수 없는 상큼함”. Nate (bằng tiếng Hàn). Sports Donga. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
- ^ Lee Han-soo (Ngày 24 tháng 4 năm 2016). “TWICE returns with new album”. The Korea Times. Truy cập Ngày 24 tháng 4 năm 2016.
- ^ Jung, Eun-jin. “Twice to move on to 'Page Two'”. The Korea Herald. Truy cập Ngày 25 tháng 4 năm 2015.
- ^ Lee, Han-soo (ngày 24 tháng 4 năm 2016). “TWICE returns with new album”. Korea Times (bằng tiếng Anh). The Korea Times. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ Park, Sae-jin (ngày 26 tháng 4 năm 2016). “TWICE hits million mark with 'Cheer Up' on YouTube in less than a day”. Aju Daily (bằng tiếng Anh). Aju Business Daily. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ “BNTNews- TWICE to Sweep the Music Chart”. BNT News UK. International BNT News. Ngày 25 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. Gaon Chart. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ “2016년 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập Ngày 22 tháng 5 năm 2017.
- ^ “2016년 18주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Ngày 5 tháng 5 năm 2016. Truy cập Ngày 4 tháng 5 năm 2016.
- ^ “World Music: Top World Albums Chart”. Billboard. Truy cập Ngày 3 tháng 5 năm 2016.
- ^ Yoon, Jun-pil. “'엠카운트다운' 트와이스, 1위 수상 "'식스틴' 첫 방송 1주년…1위 주셔서 감사"”. TenAsia (bằng tiếng Triều Tiên). Korea Entertainment Media. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2016. Truy cập Ngày 5 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ Yoon, Jun-pil. “인기가요' 트와이스, '치어 업'으로 1위…지상파 2연속 1위”. TenAsia (bằng tiếng Triều Tiên). Korea Entertainment Media. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2016. Truy cập Ngày 8 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “TWICE Sells 150,000 Records”. bntnew. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2016.
- ^ Jeon, Won. “트와이스 사나, 1주년 기념 파티서 눈물 "옛날 생각나"”. Naver (bằng tiếng Hàn). My Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016.
- ^ “TWICE reveals highlights of its new EP 'TWICEcoaster: Lane 1'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016. Truy cập Ngày 24 tháng 10 năm 2016.
- ^ “TWICE's new EP bets on cheerful vibe”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập Ngày 24 tháng 10 năm 2016.
- ^ "TT" trên Gaon Digital Chart:
- “2016년 44주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- “2016년 45주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- “2016년 46주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- “2016년 47주차 Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- ^ “World Digital Song Sales”. Billboard. ngày 12 tháng 11 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2016.
- ^ “2017 Year-End Rankings”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập Ngày 8 tháng 12 năm 2017.
- ^ “2016년 44주차 Album Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
- ^ “World Albums”. Billboard. Ngày 12 tháng 11 năm 2016. Truy cập Ngày 31 tháng 10 năm 2016.
- ^ “트와이스… 새로운 '넘사벽' 그룹의 출현”. Naver TV Cast (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 22 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
- ^ “2016년 Album Chart”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
- ^ “Twice's 'TT' music video tops 200 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Yonhap News. 26 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Twice's music video hits 100 million views'”. Yonhap News Agency. Yonhap News. 10 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
- ^ “TWICE's music video hits 100 million views'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
- ^ Lee, Sang-won. “Winners from the 2016 MelOn Music Awards”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập Ngày 8 tháng 3 năm 2017.
- ^ Lee, Bora. “[2016 MAMA] Twice Wins the HotelsCombined Song of the Year Award”. Mwave. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2017.
- ^ “TWICE's 'TT' music video tops 200 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Ngày 26 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2017. Truy cập Ngày 23 tháng 6 năm 2017.
- ^ Jun, R. “TWICE's 'TT' music video tops 300 mln YouTube views”. Yonhap News Agency. Yonhap News. Truy cập Ngày 22 tháng 12 năm 2017.
- ^ Min, Susan. “Twice to Hold First Solo Concert Since Debut”. Mwave. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
- ^ Min, Susan. “Twice Sells Out of Tickets for First Solo Concert”. Mwave. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
- ^ Han, Ah-reum. “'첫 단콘' 트와이스, 5000개 야광봉과 함께 빛나다(종합)”. Star News (bằng tiếng Hàn). Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
- ^ Yoon, Min-sik. “(Photo) Twice wraps up encore Seoul concert”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ “Girl group TWICE to release special album”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2017.
- ^ Yoon, Min-sik. “Twice reveals new teaser image for upcoming album”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2017.
- ^ “TWICE to debut in Japan in June”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
- ^ “女子中高生に人気の"TTポーズ"を生んだ、ピコ太郎超えの韓国グループとは?”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
- ^ “2017年6月28日にデビューにしてベストアルバム「#TWICE」リリースで日本上陸!!”. Twice Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
- ^ Yoon, Min-sik. “Twice to debut in Japan”. K-pop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017.
- ^ Jie, Ye-eun. “Twice confirms new album release in May”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
- ^ Hong, Dam-young. “Twice sends 'Signal' with fourth EP”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2017.
- ^ “SIGNAL -Japanese ver.- TWICE” (bằng tiếng Nhật). Recochoku. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.
- ^ “[JYP ENT] TWICE 'TT' MV (Japanese Ver.)”. Facebook. BSPictures Co., Ltd. ngày 21 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Twice Japan Debut Best Album #Twice”. Twice Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- ^ Lee, Seung-rok. “[MD재팬] 트와이스, 7월 도쿄서 日 첫 단독 쇼케이스…본격 진출”. Naver (bằng tiếng Hàn). My Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
- ^ “7月2日(日)TWICE DEBUT SHOWCASE "Touchdown in JAPAN"開場・開演時間発表!”. Twice Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2017.
- ^ “TWICE、日本初ワンマンに1万5000人熱狂!日本人メンバーも笑顔で凱旋<ライブレポ・セットリスト>”. Model Press (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên#Twice on Oricon
- ^ “TWICE to drop new song 'One More Time' in Japan”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kelley, Caitlin. “TWICE to Release 'One More Time,' First Japanese Single, in October”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kelley, Caitlin. “K-Pop Girl Group Twice Share Cartoonish 'One More Time' Video”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
- ^ Lee, Eun-jeong. “"일본서 K팝 열기 재점화"…트와이스 싱글 오리콘차트 1위”. Naver (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ “TWICE's new Japanese single sells over 130,000 copies”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ a b c ゴールドディスク認定 一般社団法人 日本レコード協会 (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2017. Ghi chú: Để truy xuất các chứng nhận, 1) Nhập TWICE vào khung "アーティスト", 2) nhấp 検索
- '^ “ゴールドディスク認定 一般社団法人 日本レコード協会” (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 20 tháng 3 năm 2018. Ghi chú: Để truy xuất các chứng nhận, 1) Nhập TWICE vào khung "アーティスト", 2) nhấp 検索
- ^ “第32回 日本ゴールドディスク大賞・受賞作品/アーティスト”. Japan Gold Disc Award (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 26 tháng 2 năm 2018.
- ^ “第32回 日本ゴールドディスク大賞・受賞作品/アーティスト”. Japan Gold Disc Award (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập Ngày 26 tháng 2 năm 2018.
- ^ Jeong, Joon-hwa. “[단독] 트와이스, 캐나다에서 신곡 M/V 촬영..컴백 임박”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
- ^ Baek, Ah-young. “트와이스, 9인 9색 하트가 터지는 타이틀곡 'Likey'로 30일 정규 1집 'Twicetagram' 컴백!”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iMBC. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2017.
- ^ Jeong, Ji-won. “"트와이스 위한 히든트랙"…블아필, 1년만 'Likey' 지원사격”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2017.
- ^ “(LEAD) TWICE thrilled to release first full-length album 'Twicetagram'”. Yonhap. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2016.
- ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Earn First No. 1s on Both World Albums & World Digital Song Sales Charts”. Billboard. Billboard Music. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017.
- ^ “TWICE to drop repackaged edition of 'Twicetagram' next month”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
- ^ “Merry & Happy”. Naver Music (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017.
- ^ Smith, Alyssa. “Twice and Daichi Miura among 10 debuts at this year's 'Kohaku'”. The Japan Times. The Japan Times LTD. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
- ^ “<速報>「第68回 NHK紅白歌合戦」出場歌手発表”. Model Press (bằng tiếng Nhật). Model Press. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2017.
- ^ “韓国グループから6年ぶり紅白・TWICE、選考理由は?NHKも"TTポーズ"ブーム評価<第68回NHK紅白歌合戦>”. Model Press (bằng tiếng Nhật). Model Press. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2017.
- ^ “6年ぶりの韓流"復活" ひふみんのTTポーズに「かわいい!」”. Sankei (bằng tiếng Nhật). Sankei Shimbun. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
- ^ “TWICE to drop new Japanese single album”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ “JAPAN 2nd SINGLE「Candy Pop」の先行配信スタート!”. Twice Official Japanese website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2018.
- ^ Herman, Tamar (ngày 9 tháng 4 năm 2018). “TWICE Ask 'What Is Love?' in Cinematically Inspired New Music Video”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2018.
- ^ “2018년 04월 Album Chart” [April 2018 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập Ngày 15 tháng 5 năm 2018.
- ^ a b “ALBUM 가온 인증” [Album Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
- ^ Min-suk, Yoon (ngày 22 tháng 5 năm 2018). “Twice marks a hit in Japan for 3rd straight time”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ Hong Dam-young (ngày 25 tháng 3 năm 2018). “Twice to release album on April 9”. The Korea Herald. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018.
- ^ “TWICE、日本3rdシングル「Wake Me Up」を5月にリリース!ABC-MART新TVCM出演も決定”. M-On! Music (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2018.
- ^ Yim, Hyun-su. “Twice ends 2nd Asia tour, wowing thousands of fans”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2018.
- ^ “竹内涼真×浜辺美波「センセイ君主」TWICE歌う主題歌MV公開”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
- ^ Park, Sae-jin. “Girl band TWICE to sing remake of Jacksons 'I Want You Back'”. Aju Business Daily. Ajunews Corporation. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
- ^ “竹内涼真や浜辺美波がTWICEとダンス!「センセイ君主」コラボMV完成”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2018.
- ^ Herman, Tamar. “TWICE Get Ready to 'Dance the Night Away' in Tropical New Video: Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2018.
- ^ “STREAMING 가온 인증” [Streaming Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
- ^ “DOWNLOAD 가온 인증” [Download Gaon Certification]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2019.
- ^ “TWICE to release first full-length album in Japan”. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
- ^ Herman, Tamar. “TWICE Save Happiness in Music Video for Japanese Single 'BDZ': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
- ^ “TWICE、今秋アルバム発売&アリーナツアー開催を発表”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018.
- ^ Jeong, Ji-won (Ngày 10 tháng 10 năm 2018). “'전무후무' 트와이스, 日 5연속 플래티넘 인증 획득 [공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập Ngày 20 tháng 10 năm 2018 – qua Naver.
- ^ Choi, Ji-won. “Twice to release third album of the year Nov. 5”. The Korea Herald. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.
- ^ Yim, Hyun-su. “Twice signals winter hit with new single 'Yes or Yes'”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
- ^ “트와이스 'YES or YES' 음원 차트 1위…포브스 "뮤직비디오 세계 7위 기록"”. Hankyung. Korea Economic Daily. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2019.
- ^ Kelley, Caitlin (Ngày 8 tháng 11 năm 2018). “TWICE's 'Yes or Yes' Becomes The Seventh-Biggest 24-Hour YouTube Debut Of All Time”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc Ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập Ngày 14 tháng 11 năm 2018.
- ^ Benjamin, Jeff (Ngày 15 tháng 11 năm 2018). “TWICE Hit New Peak on YouTube Songs Chart With 'Yes or Yes'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc Ngày 1 tháng 12 năm 2018. Truy cập Ngày 1 tháng 12 năm 2018.
- ^ Herman, Tamar (ngày 12 tháng 12 năm 2018). “TWICE Get Reflective in Sweet New Video For 'The Best Thing I Ever Did': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2018.
- ^ “TWICEの日本1stアルバム「BDZ」、"セツナUPテンポ"な新曲入りでリパッケージ”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 22 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
- ^ “TWICE 2nd BEST ALBUM「#TWICE2」”. Twice Official Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Truy cập Ngày 28 tháng 4 năm 2019.
- ^ “TWICE、22万人を動員した初のドームツアーを完走 7月に2週連続シングル発表で第二章の幕開け 8日から出演CMもオンエア開始”. Excite News (bằng tiếng Nhật). Ngày 7 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 7 tháng 4 năm 2019.
- ^ Herman, Tamar (Ngày 22 tháng 3 năm 2019). “TWICE Make History as First K-Pop Girl Group to Hold Japanese Dome Tour”. Billboard. Truy cập Ngày 22 tháng 3 năm 2019.
- ^ Yoon, Min-sik (Ngày 7 tháng 4 năm 2019). “Twice wraps up dome tour in Japan, amassing 220,000 fans”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập Ngày 21 tháng 8 năm 2019.
- ^ Herman, Tamar. “TWICE Announce 'Fancy You' Album and 2019 World Tour Dates”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2019.
- ^ Herman, Tamar (Ngày 22 tháng 4 năm 2019). “Twice Get Bold in Video For 'Fancy': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 24 tháng 4 năm 2019.
- ^ Kelley, Caitlin (Ngày 30 tháng 4 năm 2019). “TWICE's 'Fancy' Becomes YouTube's Seventh-Biggest Debut In 24 Hours”. Forbes. Truy cập Ngày 10 tháng 5 năm 2019.
- ^ “트와이스, 국내 음반 판매량 누적 375만장 돌파…韓日 누적 600만장”. Naver (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2019.
- ^ Kelley, Caitlin. “K-pop Girl Group TWICE Has Sold Over 6 Million Albums Worldwide”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
- ^ a b “트와이스, 일본 데뷔 2주년 기념 '이례적 앨범 프로모션'”. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). The Dong-a Ilbo. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ Woobin (Ngày 15 tháng 7 năm 2019). “트와이스, 아시아 투어 마치고 북미 투어 돌입···17일 LA서 공연”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ten Asia. Truy cập Ngày 26 tháng 7 năm 2019.
- ^ Seon, Mi-gyeong (Ngày 26 tháng 7 năm 2019). “트와이스, 첫 미주투어 4만 1천여팬 동원 대성공..'K팝 대표 걸그룹' 위상 증명”. Naver (bằng tiếng Hàn). OSEN. Truy cập Ngày 26 tháng 7 năm 2019.
- ^ Benjamin, Jeff (Ngày 19 tháng 8 năm 2019). “TWICE to Give Intimate Look at North American Tour in YouTube Original Series: Exclusive”. Billboard. Truy cập Ngày 25 tháng 8 năm 2019.
- ^ “TWICE announces Japanese leg of ongoing world tour”. Yonhap (bằng tiếng Anh). Yonhap News Agency. ngày 17 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ Min-suk, Yoon (ngày 14 tháng 8 năm 2019). “[Anniversary Special] 21 years after 'Japanese invasion,' Korean pop culture stronger than ever”. Korea Herald (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ Herman, Tamar (ngày 23 tháng 9 năm 2019). “Twice 'Feel Special' On Inspiring New Single and EP: Listen”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
- ^ Tan, Pakkee (ngày 23 tháng 9 năm 2019). “TWICE Is Back With A Sparkling Single To Make You 'Feel Special': Watch”. E! Online. E! Entertaiment Television. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
- ^ Benjamin, Jeff (Ngày 4 tháng 10 năm 2019). “TWICE's 'Feel Special' Hits No. 1 on World Digital Song Sales & Enters Canadian Hot 100”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 6 tháng 10 năm 2019.
- ^ “TWICE surpasses their previous 'First Week Album Sales' record with 'Feel Special'”. KoogleTV. ngày 30 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2019. Truy cập Ngày 15 tháng 11 năm 2019.
- ^ “트와이스, 신보 Feel Special' 통해 걸그룹 초동 신기록경신…FANCY 기록 넘는 15만4000장 달성”. 전사신문/etnews. Ngày 30 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2019.
- ^ Lee, Chang-kyu (Ngày 17 tháng 10 năm 2019). “트와이스(TWICE) 일본 정규 2집 타이틀곡 'Fake & True' 두 번째 티저 공개…처음에 등장한 미나 후반부에 등장않는 이유는?”. Topstarnews (bằng tiếng Hàn). Topstarnews. Truy cập Ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ Herman, Tamar (Ngày 18 tháng 10 năm 2019). “Twice Offer Up Words Of Wisdom With New Japanese Single 'Fake & True': Watch”. Billboard. Billboard. Truy cập Ngày 19 tháng 10 năm 2019.
- ^ Editor (Ngày 18 tháng 10 năm 2019). “'Fake & True' 뮤비 속 트와이스 F/W 헤어&메이크업”. E-Graphy (bằng tiếng Hàn). Graphy Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2020. Truy cập Ngày 18 tháng 10 năm 2019.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Kim, Jin-woo (Ngày 23 tháng 12 năm 2019). “2019 앨범 판매량 리뷰”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
- ^ Lee, Min-ji (Ngày 19 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 3년 연속 음반 판매량 100만장 돌파…역시 K팝 대표 걸그룹”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsen. Truy cập Ngày 19 tháng 12 năm 2019.
- ^ a b “【オリコン年間ランキング 2019】年間アーティストトータルセールスランキング 1位~5位”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
- ^ “ビルボードジャパン 年間ランキング2019発表~【Hot 100】は日米初の2年連続米津玄師「Lemon」、【Hot Albums】は嵐『5×20 All the BEST!! 1999-2019』”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 23 tháng 12 năm 2019.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênbillboardjp2017
- ^ “ビルボードジャパン 2018年 年間ランキング発表~【HOT 100】は米津玄師「Lemon」、【Hot Albums】は安室奈美恵『Finally』が首位”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 25 tháng 12 năm 2018.
- ^ “Spotifyが2019年の日本・世界の音楽シーンを振り返るランキングを発表”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập Ngày 24 tháng 12 năm 2019.
- ^ Park, Soo-in (Ngày 24 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 日 오리콘 연간 콘텐츠 판매액 차트 4위 'K팝가수 올해 최고 기록'”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsen. Truy cập Ngày 24 tháng 12 năm 2019.
- ^ “TWICE WORLD TOUR 2019 'TWICELIGHTS' IN JAPAN 東京ドーム追加公演決定!”. Twice Official Japanese Website (bằng tiếng Nhật). Warner Music Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập Ngày 27 tháng 10 năm 2019.
- ^ “TWICE announces Tokyo Dome edition of world tour”. Yonhap News Agency. ngày 28 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
- ^ Kim, Young-rok (ngày 28 tháng 10 năm 2019). “[공식]트와이스, 2년 연속 도쿄돔 선다…월드투어 추가 공연 발표”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2019.
- ^ Ahn, Jin-young (ngày 2 tháng 12 năm 2019). “트와이스, 2019 월드투어 서울에서 피날레 공연 개최”. Naver (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019.
- ^ “TWICELIGHTS in Seoul 'FINALE' 취소 관련”. JYP Entertainment. ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 24 tháng 2 năm 2020). “JYP Entertainment & Republic Records Enter Strategic Partnership For Girl Group Twice: Exclusive”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Twice's 'Seize The Light' Trailer: Watch”. Billboard. ngày 14 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020.
- ^ Mendez, Michele. “Here's Everything We Know About TWICE's Next Comeback”. Elite Daily (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
- ^ “[공식] 트와이스 'MORE&MORE', 선주문 50만장 돌파…발매전 '하프 밀리언셀러'”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2020.
- ^ “Twice”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2020.
- ^ “TWICE relives memories, forges new ones with fans in 'World In A Day'”. Rappler (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
- ^ “[단독] 'K팝 원톱 걸그룹' 트와이스, 10월 26일 컴백 확정”. Naver (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
- ^ “트와이스, 정규 2집 트랙리스트 오픈..박진영∙헤이즈→두아 리파∙심은지 참여 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
- ^ McIntyre, Hugh. “Korean Superstars TWICE Make History On The Billboard 200 With Their Latest Album”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ Lee, Julia (ngày 16 tháng 10 năm 2020). “K-pop girl group Twice joins the League of Legends K/DA roster”. Polygon (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
- ^ “K/DA Unleash Debut EP 'All Out' With Twice and Kim Petras: Stream it Now”. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
- ^ “Twice JAPAN 7th SINGLE「BETTER」”. Twice OFFICIAL SITE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.
- ^ “【ビルボード】LiSA「炎」が総合首位返咲きV5達成 優里「ドライフラワー」総合8位に急伸 | Daily News”. Billboard JAPAN (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
- ^ Belmis, Victoria (ngày 24 tháng 11 năm 2020). “Twice Is Set To Perform 'I CAN'T STOP ME' On 'The Late Show with Stephen Colbert'”. Korea Portal. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
- ^ Jeong, Ha-eun (ngày 1 tháng 12 năm 2020). “트와이스, 한일 음반 판매량 누적 1000만장 돌파[공식]”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2020.
- ^ Benjamin, Jeff (ngày 18 tháng 12 năm 2020). “Twice Close Major 2020 With 'Cry For Me' That Combines Pop & K-Pop Hitmakers: Listen”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Cry For Me - World Digital Song Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Cry For Me - Global Excluding US Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2020.
- ^ Kat Moon (28 tháng 1 năm 2021). “Twice Delivers Uplifting Performance of 'Depend on You' at Time100 Talks”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Twice、生配信ライヴ「新体感ライブ Connect Special Live 『Twice in Wonderland』」3月6日に開催決定”. Tower Records (bằng tiếng Nhật). 14 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Twice、日本8thシングルは「Kura Kura」。生配信ライブでリリース発表”. Barks (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
- ^ a b Gladys Yeo (19 tháng 4 năm 2021). “Twice to release new music in June, JYP confirms”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
- ^ “Twice Share Energized Performance on 'Cry For Me' on 'Kelly Clarkson Show': Watch”. Billboard. 27 tháng 4 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2021.
- ^ Ahn Byung-gil (11 tháng 5 năm 2021). “트와이스, 새 노래 내달 9일 선공개 [공식]”. Sports Kyunghyang (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
- ^ Lee, Jae-hoon (11 tháng 6 năm 2021). “Twice's new song "Alcohol-Free" hits 20 million views in just one day”. newsis (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Polo G Lands First No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Hall of Fame'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Twice、Japan 3rdアルバム『Perfect World』7月リリース 様々な愛のカタチを集めた作品”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
- ^ Yeo, Gladys (6 tháng 8 năm 2021). “Twice announce new English-language single, out in September”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
- ^ Ziwei, Puah (1 tháng 10 năm 2021). “TWICE unveil highly anticipated 'The Feels' music video”. NME. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2021.
- ^ Hwang, Hye-jin (12 tháng 10 năm 2021). “트와이스 美빌보드 핫100 입성, 데뷔 7년차 기특한 커리어하이[뮤직와치]” [TWICE entered the Billboard Hot 100! 7 years since their debut. [Music Watch]]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2021.
- ^ Suacillo, Angela Patricia (12 tháng 10 năm 2021). “TWICE reach new milestones on Billboard charts with 'The Feels'”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ Park Seo-yeon (8 tháng 10 năm 2021). “트와이스, 11월 12일 컴백..정규 3집 'Formula of Love: O+T=<3' 발매[공식]”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2021.
- ^ Caulfield, Keith (21 tháng 11 năm 2021). “Taylor Swift Scores 10th No. 1 Album on Billboard 200 with 'Red (Taylor's Version)'”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
- ^ Kaufman, Gil (15 tháng 11 năm 2021). “TWICE Announce Initial North American Dates On 2022 World Tour”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
- ^ Lee, Soo-jin (15 tháng 11 năm 2021). “트와이스, 네번째 월드투어...크리스마스에 서울공연”. Newsis (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
- ^ “12/15(水)発売TWICE JAPAN 9th SINGLE『Doughnut』ご購入者対象オンラインイベント開催決定!”. TWICE Japan Official Site (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2021.
- ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Sets New Record For Female K-Pop Acts Upon Closing 2nd U.S. Arena Tour”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2022.
- ^ 권미정 (7 tháng 4 năm 2022). “다들 놀라지 마세요, 데뷔 8년 차 트와이스가 어마어마한 소식을 전했습니다”. 위키트리 | 세상을 깨우는 재미진 목소리 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
- ^ Benjamin, Jeff. “TWICE Set Another Touring Milestone For Female K-Pop Acts With U.S. Stadium Show Reveal”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2022.
- ^ 김지호. “트와이스, 日 도쿄돔 3회 솔드아웃…"초고속 매진, 서버 다운됐다"”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
- ^ 이태수. “트와이스, K팝 걸그룹 최초 일본 도쿄돔서 3회 공연” [Twice, the first K-pop girl group to perform 3 times at Tokyo Dome, Japan]. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2022.
- ^ Hà Linh (12 tháng 7 năm 2022). “Tất cả thành viên TWICE đều tái ký hợp đồng với JYP Entertainment”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2022.
- ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 7 năm 2022). “TWICE ra mắt mini album hậu tái ký hợp đồng với JYP”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2022.
- ^ “TWICE Talks TT Video, Sings Chorus Acapella”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2016.
- ^ “TWICEcoaster: LANE 1”. Twice official website (bằng tiếng Hàn). JYP Entertainment. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2017.
- ^ “How 9 girls from Twice dominated K-pop”. kpopherald.koreaherald.com. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “Everything to Know About K-Pop Group Twice”. Time. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ “TWICE's 'Feel Special' EP review: K-pop girl group mix EDM, hip hop and 90s vibes and make it work”. Young Post. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ “트와이스,댄스팝→라틴팝 꽉 채운 정규 음반에 기대감↑” [Twice, Dance Pop → Latin Pop Full of expectations for a full album]. Newsen. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ Staff, MTV News. “Twice's Eyes Wide Open Is A Journey Through Time And Space”. MTV News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ “K-pop group Twice releases music video "Likey" starring...Vancouver”. The Georgia Straight (bằng tiếng Anh). ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Breaking Down the Movie References in TWICE's 'What Is Love?' Video”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
- ^ "Nhóm nhạc nữ xu hướng hàng đầu":
- “[TV톡] 키워드로 본 올해의 가요-수치, 대세, 컴백, 국민Pick, 이별, oo병 #2017총결산(17)”. Naver (bằng tiếng Hàn). iMBC. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- Lee, Jeong-ho. “소시·원걸→트와이스·레드벨벳..2017 걸그룹 세대교체③”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- Kim, Hyun-sik. “'대세' 넘어 '국민 걸그룹'…트와이스, 6연타 홈런 도전(종합)”. Naver (bằng tiếng Hàn). No Cut News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- Lee, Jae-hoon. “트와이스, 일본 첫 싱글로 플래티넘…K팝 걸그룹 최초”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsis. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- ^ Jo, Hyun-joo. “소녀시대 닮아가는 '막강 화력' 트와이스”. Naver (bằng tiếng Hàn). Hankyung. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Moon, Wan-sik. “"샤샤샤~"부터 'TT'까지..지금은 트와이스 시대!”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Jeong, Jun-hwa. “[Oh!쎈 초점] '샤샤샤~'부터 'TT춤'까지..트와이스, 마성의 킬러”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kim, Mi-ji. “[트와이스 컴백①] "찌릿 찌릿"…트와이스 '시그널', 'TT' 넘는 열풍 만들까”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênGaon 2016
- ^ Herman, Tamar. “10 Must-Know Facts About K-pop Darlings TWICE”. Billboard. Billboard Music. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kim, So-yeon. “Twice's 'Knock Knock' tops most popular music video on YouTube”. The Korea Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2017.
- ^ “한국갤럽 Gallup Report 2016/12/20n” (PDF) (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 20 tháng 12 năm 2016.
- ^ “2017년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 11년간 추이, 아이돌 선호도 포함” (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 19 tháng 12 năm 2017.
- ^ “2018년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 12년간 추이 포함” (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 30 tháng 11 năm 2018.
- ^ Cho, Deuk-jin. “엑소 위에 박보검·송중기, 아이돌 천하 깬 드라마 스타”. Naver News (bằng tiếng Hàn). Joongang Ilbo. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Billboard Staff (ngày 28 tháng 9 năm 2017). “21 Under 21 2017: Music's Next Generation”. Billboard. Billboard Music. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2017.
- ^ “Politics of campaign jingles”. The Dong-A Ilbo. Dong-A Ilbo. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kim, Ji-young. “문재인도, 유승민도 선거송 'Cheer up'”. Naver News (bằng tiếng Hàn). Sedaily. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2017.
- ^ St. Michel, Patrick. “Twice shows just how resilient K-pop can be”. The Japan Times. The Japan Times LTD. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Kim, Ye-na. “日 여학생 80% "데뷔 앞둔 트와이스 이미 알고 있다"”. Nate (bằng tiếng Hàn). TV Report. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ “"예쁘고, 귀엽고, 친근하고"…日, 트와이스 현지 인기 분석”. Dispatch (bằng tiếng Hàn). Dispatch. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lee, Mi-hyun. “[초점IS] 소녀시대·카라와 다른 트와이스의 日 '신공략'”. Joins (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017.
- ^ “[터치! 코리아] 트와이스가 놓은 韓日 가교도 허무나”. Chosun (bằng tiếng Hàn). Chosun. Ngày 11 tháng 5 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ Nam, Sang-hyun; Kim, Ah-young; Ryu, Seol-li; Seo, Mi-rae. “Global Hallyu Issue Report (April 2017)”. Korea Foundation for International Culture Exchange (KOFICE). Deok-joong Kim (KOFICE Secretary General). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2017.
- ^ “트와이스, 일본 요미우리 신문 집중 조명... "일본 한류 콘텐츠 시장 석권의 새주인공"”. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
- ^ Twice trên Naver News:
- Kim, Eun-ae. “[공식입장] 트와이스, 10월 18일 첫 日 싱글 'One More Time' 발매”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
- Jo, Hye-won. “트와이스, 'One More Time'으로 日 음원 사이트 실시간 차트 정상!”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iMBC. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
- Kim, Hyun-rok. “트와이스, 내년 1월 日쇼케이스 투어 확정..열풍 재점화”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
- Hwang, Ji-young. “트와이스, 韓걸그룹 발매 당일 최다 판매고 "초동 30만장 육박"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2017.
- ^ “2017ブレイクアーティストランキング”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
- ^ “【オリコン年間】TWICE、新人部門3冠達成 海外女性アーティスト初”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). Oricon ME Inc. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2017.
- ^ Kim, Da-woon. “[분석] JYP 주가 7배 끌어올린 '트와이스 효과' 어디까지?”. Naver News (bằng tiếng Hàn). iNews24. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2018.
- ^ Hong, Dong-hee. “스쿨룩스 측 "박진영 교복 광고 포스터 전량 수거"”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lee, Jeong-hyeok. “트와이스, '돈 벼락' 맞았다? 데뷔 한 달 만에 CF 10개 계약해 18억원 벌어”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Sports Chosun. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
- ^ Uhm, Dong-jin. “[피플is] 트와이스 대세론, 모델료로 말한다 '3억'”. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ “Model”. Lotte Duty Free (bằng tiếng Hàn). Lotte Hotel. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lee, Do-yeon. “스프리스, 걸그룹 '트와이스' 브랜드로 세계 시장 진출”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ “TWICE wins endorsement deal for Pocari Sweat”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ Choi, Won-hyuk. “동아오츠카, 포카리스웨트 2년 연속 최고매출 경신 전망”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Herald Corporation. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ Twice quảng cáo thương hiệu:
- Kim, Jin-woo. “LG생활건강, '투마루' 모델로 트와이스 발탁”. Naver News (bằng tiếng Hàn). E Daily. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- Jeong, Ji-won. “갓세븐·트와이스, 의류모델 동반 발탁 '대세돌 입증'”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- Shin, Yeon-jae. “엘소드, 걸그룹 '트와이스'와 손잡고 신규 캐릭터 '로제' 홍보”. Osen (bằng tiếng Hàn). Osen. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- Lee, Hoon. “가마로강정, 트와이스 모델 발탁”. Nate (bằng tiếng Hàn). Kuki News. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- Lee, Seon-young. “KB국민카드, 'KB국민 나라사랑카드' 출시”. Asia Today (bằng tiếng Hàn). Asia Today. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- Jo, Hye-jin. “트와이스(TWICE), "겹치는 캐릭터 없이 다양한 색 가진 그룹"…'그래서 우아하구나'”. Nate (bằng tiếng Hàn). Top Star News. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
- ^ “TWICEがついに日本初CM出演!制服姿でキュートなダンスを披露… ワイモバイル 「転校生」篇が本日より放映”. Kstyle (bằng tiếng Nhật). LINE Corporation. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
- ^ “TWICEが日本で初のCM出演、ワイモバ学園で"Yポーズ"”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
- ^ Hwang, Jee-young. “"예쁨+시크" 트와이스, 에스티 로더 한국 앰버서더 선정”. Naver (bằng tiếng Hàn). Ilgan Sports. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2019.
- ^ “K-pop group Twice is newest Bench endorser”. ABS CBN News. ABS-CBN Corporation. Ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập Ngày 7 tháng 12 năm 2019.
- ^ Cara Emmeline Garcia (Ngày 6 tháng 12 năm 2019). “JUST IN: K-Pop group Twice becomes latest endorser of local clothing brand”. GMA Entertaiment. GMA Network Inc. Truy cập Ngày 7 tháng 12 năm 2019.
- ^ Lee Se-hyun (9 tháng 3 năm 2021). “트와이스, 레모나 모델 발탁”. Sports Kyunghyang (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2021.
- ^ “한국닌텐도, 트와이스가 출연한 『미토피아』 특별편 영상 공개!”. Nintendo Korea (bằng tiếng Hàn). 18 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
- ^ “TWICE to perform during Shopee's live 9.9 show”. Rappler. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
- ^ Sng, Suzanne (18 tháng 10 năm 2021). “Fans object to K-pop girl group Twice endorsing whitening products”. The Straits Times. ISSN 0585-3923. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Fans object to K-pop's Twice endorsing whitening products from Indonesia”. The Star (Malaysia). 19 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2021.
- ^ “Twice: K-Pop star Mina pulls out of tour due to 'extreme anxiety'”. BBC. 11 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
- ^ Dong, Sun-hwa (12 tháng 7 năm 2019). “Extreme anxiety forces TWICE's Mina from world tour”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2019.
- ^ Ko, Dong-hwan (24 tháng 7 năm 2019). “Fans believe Twice member Mina was forced out of world tour by Anti-Japan bullies”. South China Morning Post. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
- ^ Oh Bo-ram (17 tháng 10 năm 2020). “트와이스 정연, 활동 잠정 중단 ... "컴백 준비 중 불안감 겪어"” [TWICE's Jeongyeon to temporarily suspend activities ... "I experienced anxiety while preparing for a comeback"] (bằng tiếng Hàn). Yonhap News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
- ^ Park Se-yeon (31 tháng 1 năm 2021). “트와이스 정연, 활동중단 딛고 모처럼 무대 나들이[서울가요대상]” [Twice's Jeongyeon, after a long hiatus, goes out on stage [Seoul Music Awards]] (bằng tiếng Hàn). Maeil Economic Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
- ^ Han Hae-seon (18 tháng 8 năm 2021). “트와이스 정연, 활동 중단.."공황·심리적 불안 장애"[전문]” [Twice Jeongyeon, suspending activities.."Picnic and psychological anxiety disorder"[Full text]] (bằng tiếng Hàn). MT Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2021 – qua Naver.
- ^ Yeon, Hwi-seon (12 tháng 11 năm 2021). “'뮤직뱅크' 더보이즈 1위, 트와이스→라붐 걸그룹 선후배 나란히 컴백 [종합]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2021.
- ^ “TWICE's world tour to screen in 270 degree ScreenX format”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2018.
- ^ “TWICE TV5 -TWICE in SWITZERLAND-”. Twitter. JYP Entertainment. 24 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2017.
- ^ “TWICE PAGE TWO”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2016.
- ^ “TWICE PAGE TWO MONOGRAPH”. Twitter (bằng tiếng Hàn). TWICE. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016.
- ^ “TWICE 2017 SEASON'S GREETINGS”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 7 (trợ giúp) - ^ “<TWICEcoaster: LANE1> MONOGRAPH”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 22 (trợ giúp) - ^ Twice 1st Photo Book "One in a Million":
- “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 20 (trợ giúp) - “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 20 (trợ giúp) - “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 20 (trợ giúp)
- “TWICE 1st PHOTOBOOK ONE IN A MILLION 2017.07.10”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017. line feed character trong
- ^ “TWICE SUPER EVENT DVD”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
- ^ “LIVE DVD & Blu-ray『TWICE DEBUT SHOWCASE "Touchdown in JAPAN"』”. Twitter (bằng tiếng Nhật). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2017.
- ^ "Twicezine: Jeju Island Edition":
- “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2017.
- “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION EP.01”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
- “TWICEZINE JEJU ISLAND EDITION EP.02”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
- ^ “TWICE SIGNAL MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2017.09.18(MON)”. Twitter (bằng tiếng Anh). JYPStore. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2017.
- ^ “TWICE SEASON'S GREETINS 2018 FIRST LOVE COMING SOON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
- ^ “TWICELAND -THE OPENING- DVD & BLU-RAY COMING SOON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
- ^ “TWICE twicetagram MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2018.02.12 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2018.
- ^ “TWICE Merry & Happy MONOGRAPH PRE-ORDER STARTS 2018.03.12 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
- ^ "Twiceland – The Opening (Encore)":
- “TWICELAND -THE OPENING [ENCORE] DVD & BLU-RAY PRE-ORDER STARTS 2018.06.04. MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2018.
- “TWICELAND -THE OPENING [ENCORE] DVD & BLU-RAY PREVIEW”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2018.
- ^ "Once Begins Twice Fanmeeting":
- “TWICE FANMEETING ONCE BEGINS DVD & BLU-RAY PRE-ORDER STARTS 2018.09.17 MON”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2018.
- “TWICE FANMEETING ONCE BEGINS DVD & BLU-RAY PREVIEW”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2018.
- ^ "2019 Japan Season's Greetings "Twice Airlines"":
- “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" PRE-ORDER”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 53 (trợ giúp) - “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" ONCE JAPAN & WARNER MUSIC DIRECT”. Twitter (bằng tiếng Nhật). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018. line feed character trong
|title=
tại ký tự số 53 (trợ giúp) - “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" Teaser”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
- “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" Teaser 2”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
- “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES"”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
- “TWICE JAPAN SEASON'S GREETINGS 2019 "TWICE AIRLINES" PRE-ORDER”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE JAPAN OFFICIAL. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018. line feed character trong
- ^ “TWICE 2019 SEASON'S GREETINGS THE ROSES PRE-ORDER STARTS 2018.11.26”. Twitter (bằng tiếng Anh). TWICE. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2018.
- ^ “TWICELAND ZONE 2: Fantasy Park DVD & BLU-RAY”. Twitter. Twitter. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2019.
- ^ Lee, Ah-young. “트와이스, '식스틴' 1주년에 '엠카' 1위 차지 "더욱 성장하겠다"”. Naver (bằng tiếng Hàn). Xports News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2017.
- ^ Lee Jung-ho. “트와이스, 음방 36관왕 역대 최다기록으로 2017년 마무리”. Naver (bằng tiếng Hàn). Star News. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2018.
- ^ Jeong Ji-won. “트와이스, 7연속 '인가' 트리플크라운…또 신기록 수립” [TWICE, seven consecutive 'Inkigayo' Triple Crowns... Established another new record]. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
- ^ “Twice wins Song of Year Award at 2017 MAMA with 'Signal'”. Yonhap News. Yonhap News Agency. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
- ^ “Winning big at Mnet Asian Music Awards brings tears to eyes of BTS”. The Korea Times. ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2018.
- ^ Ji, Mi-kyung. “엑소·박보검·지성·윤여정 등 28人 2017 대중문화예술상 수상”. Naver (bằng tiếng Hàn). Osen. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập Ngày 30 tháng 10 năm 2017.
- ^ Lee, Sang-won (ngày 25 tháng 10 năm 2016). “Korean Popular Culture and Arts Awards announces winners”. K-Pop Herald. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- ^ “트와이스, 한류문화대상 영예···23일 '뉴시스 한류 엑스포'”. Newsis (bằng tiếng Hàn). Newsis. Ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ “뉴시스 '한류 엑스포' 23일 롯데호텔 개최”. Daum (bằng tiếng Hàn). Daum. ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
- ^ “방탄소년단·김준수·트와이스, 한류문화대상···뉴시스 한류엑스포(종합)”. Naver TV Cast (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
Liên kết ngoài
- Twice trên Facebook
- Twice trên Instagram
- Twice trên Twitter (tiếng Hàn)
- Twice trên Twitter (tiếng Nhật)
- Kênh Twice trên YouTube (tiếng Hàn)
- Kênh Twice trên YouTube (tiếng Nhật)
- Twice trên V Live
- Twice trên TikTok
- Twice trên Dailymotion