0% found this document useful (0 votes)
2K views83 pages

Beneath The Moon

The story describes a little mermaid who saves a prince's life after his ship sinks in a storm. Though she falls in love with him, he ends up with another woman on shore. Heartbroken, the mermaid returns to the sea to seek a way to be with the prince on land as a human.

Uploaded by

Lilith
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
2K views83 pages

Beneath The Moon

The story describes a little mermaid who saves a prince's life after his ship sinks in a storm. Though she falls in love with him, he ends up with another woman on shore. Heartbroken, the mermaid returns to the sea to seek a way to be with the prince on land as a human.

Uploaded by

Lilith
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as PDF, TXT or read online on Scribd
You are on page 1/ 83

1|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.

Tarot
2|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 5
BÀ TIÊN PHÉP (CINDERELLA) – THE MAGICIAN 7
NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM – THE HIGH PRIESTESS 8
ĐỨC TRINH NỮ GUADALUPE – THE EMPRESS 9
VUA ARTHUR – THE EMPEROR 10
NGƯỜI PHỤ NỮ TRÂU TRẮNG – THE HIEROPHANT 11
NGƯỜI ĐẸP VÀ QUÁI VẬT – THE LOVERS 12
BA CÔNG CHÚA CỦA WHITELAND – THE CHARIOT 13
TAM LIN – STRENGTH 14
TU SĨ VÀ HƯƠU TRẮNG – THE HERMIT 15
ANASI – WHEEL OF FORTUNE 16
AMHAENG-EOSA – JUSTICE 17
CÔNG CHÚA NGỦ TRONG RỪNG – THE HANGED MAN 18
VUA GẤU TRẮNG VALEMON – DEATH 19
BỒ TÁT AVALOKITESHVARA – THE TEMPERANCE 20
BOITATÁ – THE DEVIL 21
RAPUNZEL (CÔNG CHÚA TÓC MÂY) – THE TOWER 22
CHỊ GÁI ALYONUSHKA VÀ EM TRAI IVANUSHKA – THE STAR 23
CÔNG CHÚA KAGUYA – THE MOON 24
THẦN MẶT TRỜI RA – THE SUN 25
TÔN NGỘ KHÔNG – JUDGMENT 26
HINEMOA VÀ TUTANEKAI – THE WORLD 27
RƯỢU SAKE CỦA MATSUO – ACE OF CUPS 28
ENKIDU VÀ GILGAMESH – TWO OF CUPS 29
APSARA – THREE OF CUPS 30
CHIM HOẠ MI – FOUR OF CUPS 31
MẸ MA THAN KHÓC LA LLORONA – FIVE OF CUPS 32
BÀ CHÚA TUYẾT – SIX OF CUPS 33
ALADDIN – SEVEN OF CUPS 34
MOSES – EIGHT OF CUPS 35
TÀJAL–MULÚK VÀ CÔNG CHÚA DUNYÀ – NINE OF CUPS 36
ĐỨA CON CỦA BIỂN JULNAR – TEN OF CUPS 37
3|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

BAKUNAWA VÀ BẢY MẶT TRĂNG – PAGE OF CUPS 38


THỢ SĂN HALIBU – KNIGHT OF CUPS 39
YEMOJA – QUEEN OF CUPS 40
CẬU BÉ VÀ VIÊN NGỌC RỒNG – KING OF CUPS 41
JACK VÀ CÂY ĐẬU THẦN – ACE OF COINS 42
RHPISUNT – TWO OF COINS 43
BANJHAKRI VÀ BANJHAKRINI – THREE OF COINS 44
VỢ CỦA CHIM ĐIÊU – FOUR OF COINS 45
CÔ BÉ BÁN DIÊM – FIVE OF COINS 46
BÀ CỤ TỐT BỤNG VỚI CÔN TRÙNG – SIX OF COINS 47
NANAHUATZIN – SEVEN OF COINS 48
SÁU CON THIÊN NGA – EIGHT OF COINS 49
SỰ TÍCH DƯA HẤU – NINE OF COINS 50
PAN HU – TEN OF COINS 51
BEAIVI-NIEIDA – PAGE OF COINS 52
HEITSI-EIBIB – KNIGHT OF COINS 53
WARAMURUNGUNDJU – QUEEN OF COINS 54
HAH-NU-NAH, RÙA THẦN – KING OF COINS 55
NÚT THẮT GORDIAN – ACE OF SWORDS 56
SITA – TWO OF SWORDS 57
VỢ HẠC – THREE OF SWORDS 58
FENRIR – FOUR OF SWORDS 59
OSIRIS, SET, VÀ ISIS – FIVE OF SWORDS 60
DANAE VÀ PERSEUS – SIX OF SWORDS 61
SÓI ĐỒNG CỎ – SEVEN OF SWORDS 62
MIẾNG DA LỪA – EIGHT OF SWORDS 63
OEDIPUS – NINE OF SWORDS 64
SEDNA – TEN OF SWORDS 65
CÔNG CHÚA PARIZADE – PAGE OF SWORDS 66
HANG TUAH – KNIGHT OF SWORDS 67
CÔNG CHÚA TURANDOT – QUEEN OF SWORDS 68
GRIFFIN – KING OF SWORDS 69
CÂY BÚT THẦN – ACE OF WANDS 70
JANUS – TWO OF WANDS 71
4|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

CHÚ HEO BỊ PHÙ PHÉP – THREE OF WANDS 72


MOHINI VÀ ARAVAN – FOUR OF WANDS 73
PANDAVAS – FIVE OF WANDS 74
YENNENGA – SIX OF WANDS 75
JOHN HENRY – SEVEN OF WANDS 76
QUẠ CẦU VỒNG – EIGHT OF WANDS 77
NGƯỜI ĐẸP VASILISA – NINE OF WANDS 78
CÂY TIMBÓ – TEN OF WANDS 79
MWINDO – PAGE OF WANDS 80
TATTERHOOD – KNIGHT OF WANDS 81
PELE – QUEEN OF WANDS 82
PHƯỢNG HOÀNG – KING OF WANDS 83

Dịch bởi Eddy.Bella.Tarot (facebook/Instagram).


P.s: Nhắn tin cho mình nếu bạn cũng quan tâm đến Tarot of the Divine nhé!
5|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

LỜI MỞ ĐẦU
Tôi sinh ra và lớn lên giữa hai nền văn hoá. Cha tôi là người Nhật – họ ăn lúa gạo với mận ngâm và
trang trí tường bằng những bản in khắc gỗ của điện thờ Shinto (Thần đạo). Mẹ tôi là người Mỹ trên
con thuyền Mayflower1 - họ ăn bánh thịt xay (meatloaf) và trang trí tường nhà mình bằng những chiếc
chìa khoá từ trang trại gia đình cũ ở đảo Rhode. Bởi vậy tôi thường xuyên cảm thấy hai nửa của mình
không thể hoà trộn, nhưng một điểm chung đó là niềm yêu thích với những câu truyện.
Từ quê hương Nhật Bản, tôi biết đến truyện cổ tích công chúa Kaguya, cậu bé quả đào Momotaro, và
hành trình về phía Tây. Từ nước Mỹ, tôi được nghe Cinderella, Mèo đi hia (Puss in boots), và Jack
và cây đậu thần. Trong khi chắt lọc từ nhiều câu chuyện khác nhau, những chủ đề về cuộc phiêu lưu
của người trẻ tuổi, những cánh cửa cấm, và miền đất hứa luôn tồn tại song song. Tôi vô cùng biết ơn
hai nền văn hoá khác nhau đã có nhiều điểm chung trong tâm hồn họ. Quyển sách về những huyền
thoại và chuyện cổ tích là cách cảm ơn tất cả những phần trong con người tôi.
Kinh nghiệm của mình càng được tăng thêm trong mỗi thế hệ. Gia đình luôn dạy bọn trẻ trong nền
văn hoá mà họ lớn lên, nhiều gia đình lại trộn chúng lại với nhau để tạo thành một trải nghiệm mới.
Con người ngày nay có nhiều góc nhìn đa chiều một cách tiến bộ, và nó trở nên quan trọng hơn khi
mở rộng sự hiểu biết về các nền văn hoá khác nhau. Theo tôi, cách tốt nhất để học những khác biệt
đó thông qua các câu truyện.
Bộ sưu tập này chỉ là một cánh cửa sổ nhỏ trong kho tàng văn hoá khác nhau. Người đọc đa phần sẽ
nhận ra một chút nhưng đa phần sẽ không thể biết hết. Một vài người sẽ thấy hai hay nhiều mảnh mà
họ chưa từng thấy trước đây. Một số người lại tìm ra sở thích mới. Tôi đã cố gắng tìm những bản gốc
chính xác nhất có thể, nhưng một vài câu truyện rất khó để tìm ra, đặc biệt những câu truyện thông
qua lời kể của các thương nhân trên lộ trình con đường tơ lụa. Những câu truyện đó có thể được kể ở
các nền văn hoá khác nhau hoặc được bắt nguồn ở một nền văn hoá thứ ba. Mặc dù khá phức tạp
nhưng cuối cùng vẫn phản ánh được ý tưởng ban đầu của người kể và là nguồn cảm hứng để ta kể lại
vào ngày mai.
Cuối cùng, những ai biết đến Tarot sẽ nhận ra những biểu tượng được lặp lại như là cốc, kiếm, tiền
và gậy, và bảy mươi tám hình minh hoạ tạo thành bộ bài Tarot mà tôi gọi là Tarot of the Divine. Cũng
giống như những bộ bài Tarot khác, mỗi câu truyện đều liên quan, và mang một giá trị gần với những
trải nghiệm của con người.
Tôi hy vọng bạn sẽ yêu thích quyển sách này và để hiểu sâu thêm, hãy đón đọc “Beneath the moon.”
Yoshi Yoshitani

Yoshi Yoshitani là nhà vẽ tranh sống ở California, đã từng làm tại công ty The Walt Disney, Image
Comics, Valiant Comics, IDM Publishing, DreamWorks Animation, và Nhà xuất bản Rebellion. Minh
hoạ cho cuốn tiểu thuyết “Zatana và ngôi nhà bí mật”, Yoshi hiện đang là cây bút trẻ cho DC Comics.
Yoshi thường xuất hiện trên bảng điện tử tại các hội nghị truyện tranh như Emerald City Comic Con,
New York Comic Con, C2E2, HeroesCon, LightBox Expo, WonderCon, DesignerCon, Thought
Bubble, và Dragon Con. Những câu chuyện yêu thích của Yoshi là “Vua gấu Valemon”, “Tam Lin”,
và bất kỳ truyện gì với nhân vật thông minh.

1
Vào tháng 9 năm 1620, một tàu buôn tên là Mayflower ra khơi từ Plymouth, một cảng ở bờ biển phía nam nước Anh.
Thông thường, hàng hóa của Mayflower là rượu và hàng khô, nhưng trong chuyến đi này, con tàu chở hành khách: 102
người trong số họ, tất cả đều hy vọng bắt đầu một cuộc sống mới ở phía bên kia Đại Tây Dương.
6|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

NÀNG TIÊN CÁ – THE FOOL


Chuyện cổ tích Đan Mạch, Đan Mạch | The Little Mermaid – Denmark, Danish Fairy Tale

Có một nàng tiên cá sống ở toà lâu đài xinh đẹp dưới biển. Mặc
dù cô có rất nhiều thứ đẹp đẽ, những thứ mà cô ấy muốn nhất
là được thấy tất cả mọi thứ trên mặt đất nơi mà những chiếc vây
không thể đưa cô tới.
Một ngày nọ, khi nàng tiên cá đang bơi gần một con thuyền, cô
thấy một chàng hoàng tử tuấn tú bước trên tàu. Cô ngay lấp tức
bị thu hút bởi vẻ ngoài của chàng hoàng tử.
Một cơn bão ập đến, con tàu cố gắng chống trọi cơn bão nhưng
cuối cùng bị vỡ ra thành nhiều mảnh. Sau khi bầu trời yên bình
trở lại, nàng tiên cá thấy hoàng tử đang trôi nổi trên mảnh vụn
và đưa chàng vào đất liền.
Để chàng ta lại trên bờ biển, nàng tiên cá thấy một cô gái khác
chạy đến và đánh thức hoàng tử. Chàng ta nở cụ cười với cô ấy,
không phải với nàng tiên cá, và khiến nàng cảm thấy đau buồn.
Nàng quay lại vương quốc biển cả và tìm kiếm mụ phù thuỷ.
Nàng nói với bà ta là cô muốn đôi chân có thể đi lại trên đất
liền. Bà phù thuỷ cố gắng khuyên ngăn, nói với nàng tiên cá cô
ấy sẽ tổn thương. Bà phù thuỷ cũng cảnh báo rằng pháp thuật
cần tình yêu của con người; nếu không cô ấy sẽ chết và biến
thành bọt biển. Nàng tiên cá đồng ý. Để trả giá cho phép thuật, bà phù thuỷ lấy đi giọng nói của nàng
tiên cá để biến đuôi cá thành đôi chân.
Khi bước chân trên mặt đất, nàng tiên cá tìm thấy hoàng tử, hoàn toàn bình phục sau vụ chìm tàu.
Nhưng vào lúc đó, chàng đã yêu người con gái mà chàng gặp trên bãi biển. Chàng kết bạn với nàng
tiên cá, nhưng vì không có giọng nói, nàng không thể cho chàng biết ai mới là người thực sự cứu
chàng. Nàng chỉ có thể trông từ xa đám cưới của hoàng tử, và vẫn một lòng yêu hoàng tử. Sau đó,
nàng hoá thành bọt biển.
7|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

BÀ TIÊN PHÉP (CINDERELLA) – THE MAGICIAN


Chuyện cổ tích Pháp, Pháp | The Fairy Godmother – France, French Fairy Tale

Bà tiên là nhân vật tốt bụng giúp đỡ nhiều vị anh hùng, những
nhân vật tốt bụng gặp nhiều khó khăn, một trong số đó là
Cinderella.
Cinderella là một cô gái trẻ xinh đẹp, nhưng mẹ cô mất sớm.
Sau khi tái hôn với mụ dì ghẻ độc ác với hai cô con gái quái
thai, bố của Cinderella cũng mất không lâu sau đó. Để lại
Cinderella với người mẹ kế hay bực bội. Vì ghen tị Cinderella
xinh đẹp hơn hai cô gái gái của mình, bà mẹ kế đã bắt nàng
phải làm giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa và làm bếp. Hàng đêm cô
phải ngủ trong đống tro tàn cạnh lò sửa phòng bếp, nên cô lúc
nào trông cũng bẩn thỉu.
Cinderella cứ thế chịu đựng sự đày đoạ cho đến khi cô nghe
thấy sắp tới có lễ hội hoàng gia. Đó là bữa tiệc sẽ tổ chức vào
buổi tối, nơi mà tất cả các cô gái trẻ được mời đến để gặp
hoàng tử. Nàng cũng muốn đến bữa tiệc, nhưng khi Cinderella
hỏi mẹ kế của mình và hai cô chị. Họ đều cười vào mặt cô “Ai
mà muốn nhảy với một con bé bẩn thỉu, mặt nhọ nhem?”
Nàng khóc vì thấy mẹ con họ xúng xính đến bữa tiệc. Nghe
thấy tiếc khóc của Cinderella, bà tiên xuất hiện để giúp đỡ cô.
Bà tiên nói rằng, vì cảm động trước trái tim thuần khiết của nàng, bà đã giúp cô, biến bí ngô thành cỗ
xe ngựa, chuột thành những con ngựa, giẻ lau thành bộ quần áo lộng lẫy, bụi bẩn thành đôi giày thuỷ
tinh. Nhưng bà cũng dặn, phép màu sẽ hết hiệu lực vào lúc nửa đêm, cô sẽ trở về hình dạng ban đầu.
Cinderella hân hoan đến bữa tiệc. Khi hoàng tử nhìn thấy nàng, chàng ngay lập tức choáng váng trước
vẻ đẹp của cô, và họ khiêu vũ với nhau cả tối. Đến nửa đêm, cô nhớ lời mà bà tiên dặn, rời bữa tiệc
để lại một chiếc giày thuỷ tinh. Mọi thứ còn lại biến về hình dạng ban đầu.
Hoàng tử cho đi tìm cô gái bí ẩn, yêu cầu các cô gái trong vương quốc của mình thử giày. Không một
ai đi vừa, cho đến khi nó vừa khít với bàn chân của Cinderella. Hạnh phúc khi tìm được cô, chàng
nhanh chóng kết hôn với Cinderella dưới sự ban phước của bà tiên.
8|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM – THE HIGH PRIESTESS


Chuyện dân gian người Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ | Scheherazade of 1001 nights – Turkey, Arabic Folktale

Trước khi chết, nhà vua chia vương quốc của mình cho hai
người con trai, Shahryar và Shah Zaman. Hai anh em lấy hai
người phụ nữ xinh đẹp và thiết lập luật lệ riêng cho vương
quốc của mình. Mặc dù ở xa nhau, nhưng họ vẫn là anh em
tốt và thường xuyên ghé thăm nhau.
Cho đến một ngày, Shah Zaman kể về nỗi bất hạnh của anh
ấy cho Shahryar. Anh ta bắt gặp vợ mình đang ngoại tình với
một người đàn ông khác, và trong cơn thịnh nộ, anh ấy giết
cả hai người. Kể từ đó, Sha Zaman luôn nghi ngờ vào phụ nữ,
anh cho rằng vợ của Shahryar cũng đang lừa dối anh ta.
Shahryar nổi giận. Anh ta yêu cầu giết chết vợ mình, rồi sau
đó, anh ta sẽ kết hôn với một người phụ nữ mới. Sau mỗi tối,
anh ra lệnh giết họ vào sáng ngày hôm sau trước khi họ có cơ
hội phản bội anh ta.
Cả vương quốc chìm trong sợ hãi trước luật lệ của Shahryar,
cho đến khi Scheherazade, con gái của một vị quan, tình
nguyện trở thành vợ của Shahryar. Khi màn đêm xuống, cô
ấy xin Shahryah một ước nguyện cuối cùng, muốn được gặp
người em gái, Dunyazad. Khi gặp Dunyazad, Scheherazade
được nghe kể một câu chuyện.
Dưới ánh trăng mờ ảo, Scheherazade đã kể lại câu chuyện dí dỏm và hấp dẫn, nhưng khi bình minh
ló rạng câu chuyện chỉ được kể một nửa. Shahryah cho phép cô ấy sống thêm một đêm nữa để kể nốt
câu chuyện còn lại. Bằng cách đó, Scheherazade đã qua 1001 đêm kể những câu chuyện lãng mạn,
sử thi, hài hước và công lý. Thông qua những câu chuyện đó, Sharyah đã quên hết thù hận, trở thành
một đức vua nhân từ, và học cách yêu Scheherazade. Anh ấy dạy bài học đó cho người em Shah
Zaman, người sau này cũng học cách tha thứ và kết hôn với Dunyazad.
9|Bên Dưới Ánh Trăng | Eddy.Bella.Tarot

ĐỨC TRINH NỮ GUADALUPE – THE EMPRESS


Mexico, Giáo hội Công giáo Roma | Our Lady of Guadalupe – Mexico, Catholic Saint

Vào một buổi sáng tháng mười hai, một người phụ nữ của thần
thánh xuất hiện trước một tá điền người Mexico Juan Diego
và đã nói với anh bằng ngôn ngữ của anh ta, Nahuatl, ngôn
ngữ Aztecs. Bà ấy nói rằng mình là mẹ của các vị thần, Đức
Trinh nữ Mary, và yêu cầu xây dựng một nhà thờ để thờ bà
ấy trên chính ngọn đồi này.
Juan Diego tìm kiếm Tổng giám mục của thành phố Mexico,
Friar Juan de Zumárraga, nói cho ông về câu chuyện của
mình. Tổng giám mục nghi ngờ, nhưng khi Juan Diego gặp
người phụ nữ ấy một lần nữa, và bà ấy lại nói với anh ấy về
việc xây nhà thờ, Tổng giám mục mới yêu cầu một phép màu
để chứng minh khả năng của bà. Bà đồng ý và yêu cầu Juan
Diego quay lại ngọn đồi này vào ngày mai. Nhưng ngày hôm
đó Juan Diego lại phải đến thăm người chú sắp chết, Juan
Bernardino. Sau ngày hôm đó, người phụ nữ bắt Juan Diego
cực nhọc xung quanh ngọn đồi nếu anh ấy muốn gặp mình.
Khi anh ấy thú nhận một cách tội lỗi lí do của mình, người
phụ nữ nói vọng ra “Tôi không có ở đây, tôi là Đức mẹ của
cậu có được không?” Bà bảo cậu ta trèo lên ngọn đồi và gom
những bông hoa ở đó.
Ngọn đồi bình thường vẫn cằn cỗi vào tháng mười hai, nhưng lại nở những bông hoa hồng Castilian,
vốn mọc ở Tây Ban Nha, không phải của Mexico. Người phụ nữ giúp Juan Diego lấy những bông
hoa cho vào áo khoác ngoài của anh ấy. Khi anh ta mang những bông hoa nở bung đến chỗ Tổng
giám mục, họ phát hiện áo choàng in hình một người phụ nữ. Juan Diego quay lại chỗ người chú và
thấy Juan Bernardino đã hoàn toàn được chữa lành. Bà ấy được biết đến như Guadalupe. Tổng giám
mục thừa nhận điều kỳ diệu và bắt đầu xây một nhà thờ nhỏ trên đỉnh đồi Tepeyac.
Đức mẹ Guadalupe cho đến ngày nay là người lai giữa người bản địa và di sản văn hoá châu Âu. Bà
là biểu tượng của hoà bình, chữa lành và sự thống nhất.
10 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

VUA ARTHUR – THE EMPEROR


Huyền thoại người Celt2, Anh | King Arthur – Britain, Celtic Legend

Ngày xửa ngày xưa, nước Anh bị xâm lược bởi Saxons và nhà
vua bị lật đổ. Trong sự hỗn loạn đó, một nhà tiên tri đã nói
rằng vị vua đích thực có thể rút thanh kiếm ra khỏi tảng đá cổ,
là người sẽ lấy lại được nước Anh và đánh đuổi bọn Saxons.
Chàng trai trẻ Arthur là người như vậy, anh rút kiếm ra khỏi
tảng đá một cách dễ dàng, mọi người đổ xô đi đằng sau anh.
Được giúp đỡ bởi một phù thuỷ già thông thái Merlin, vua
Arthur đã tập hợp được những kỵ sĩ giỏi nhất của vương quốc
và cùng ngồi bàn tròn với họ trong lâu đài Camelot.
Vua Arthur không chỉ đẩy lùi được đội quan Saxons mà còn
chống lại được thế lực sinh nhiên, ví dụ như quái vật mèo
khổng lồ Cath Pulag, quái vật heo rừng bị phù phép và có nọc
độc Twrch Trwyth, chó đầu người Cyno-cephali, người
khổng lồ Cibwr Gawr… Một trong những hành trình đáng
chú ý, vua Arthur đến hòn đảo ma thuật Avalon bao quanh
bởi hồ nước sau khi thanh gươm của ông bị hư hỏng. Đi xà
lan trên mặt hồ, ông được chào đón bởi nữ thần của hồ, tiên
nữ tên Nimue. Cô hiện lên trên mặt nước và tặng ông một
thanh gươm mê hoặc Excalibur, mang cho ông thêm nhiều
sức mạnh để đánh đuổi những thế lực hắc ám là tai hoạ đến
thần dân Anh.
Sau khi vua Arthur và những kỵ sĩ của ông đánh đuổi được những thế lực bên ngoài và chiến thắng
mọi ác quỷ, họ trị vì đất nước trong yên bình và thịnh vượng. Ông cùng nữ hoàng Guinevere, cùng
cai trị đất nước một cách công bằng và tư bi. Nhưng họ không có con.
Thật không may, sự yên bình chấm hết khi chị họ của Arthur, Morgan le Fay, giúp đỡ con quỷ
Mordred và cố gắng chiếm đoạt ngai vàng. Vua Arthur buộc phải giết Mordred nhưng cũng bị vết
thương chí mạng trong trận chiến. Trước khi chết, ông muốn trả lại thanh gươm Excalibur cho nữ
thần hồ.

2
Người Celt (Celts /kɛlts/ hoặc /sɛlts/), còn gọi người Xen-tơ, là một nhóm đa dạng các bộ lạc, bộ tộc và dân tộc thời kì
đồ sắt và thời kì đầu Trung Cổ ở châu Âu, và từng nói các ngôn ngữ Celt.
11 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

NGƯỜI PHỤ NỮ TRÂU TRẮNG – THE HIEROPHANT


Thần Lakota, Bắc Dakota | White Buffalo Woman3 – North Dakota, Lakota Deity

Từ rất lâu, khi không có thú vui gì cả, và người Lakota Sioux
thiếu cái ăn. Tộc trưởng của người Lakota liên tục cử người
do thám đi thật xa và thật xa, cho đến một ngày, hai trong
những người do thám của ông ta thấy một người phụ nữ trẻ
đẹp trong bộ da hoẵng trắng. Cô bay đến gần họ thay vì bước
tới. Người đầu tiên khiến cô bừng tỉnh, và đối xử với lòng
kính trọng. Người còn lại nảy sinh ham muốn, anh ta kiêu
ngạo và đối xử một cách trơ tráo để biến cô ấy thành vợ mình.
Khi anh ta chạm vào cô, một làn khói trắng bao quanh hắn.
Khi đám khỏi biến mất, chỉ còn mảnh xương ở lại nơi mà hắn
đứng trước đó. Người đàn ông thứ nhất run cầm cập, nhưng
người phụ nữ trấn an anh ta, vì cô thấy trái tim anh ta thuần
khiết. Cô ấy giao tiếp bằng ngôn ngữ của anh ấy, rằng hãy
quay lại và nói với mọi người cô ấy đang tới. Người đàn ông
trẻ quay lại và kêu gọi mọi người, chuẩn bị tiếp đón người
phụ nữ thần thánh.
Sau bốn ngày, người phụ nữ trâu trắng biến hoá tới bốn lần.
Khi hoá đen, khi vàng, khi đỏ, và cuối cùng là một người thiếu
nữ trâu trắng. Cô ấy ở lại với mọi người trong bốn ngày, dạy
họ bài hát thiêng, nhảy, và tiệc tùng và cố vấn họ cách sống. Vào ngày cuối cùng, cô ấy tặng mọi
người “chanunpa4”- một ống linh thiêng, để nuôi dưỡng yên bình và hiểu biết. Cô ấy dạy họ cách cầu
nguyện và dạy tất cả mọi người vị trí và vai trò của họ trong vòng linh thiêng của cuộc sống. Cuối
cùng cô ấy rời đi, lăn trên mặt đất bốn lần. Cô ấy biến thành trâu vàng, trâu đỏ, trâu đen và cuối cùng
là trâu trắng. Vùng trời cô ấy biến mất, một đàn trâu lớn xấu hiện, mang tất cả mọi thứ mà người
Lakota cần. người phụ nữ trâu trắng dạy rằng bằng hợp nhất trái đất với sức mạnh thần thánh, tất cả
thứ họ cần sẽ được đáp ứng.

3
Tên khác: White Buffalo Calf Woman/ White Buffalo Maiden
4
Čhaŋnúŋpa là tên ngôn ngữ Sioux cho đường ống linh thiêng, nghi lễ và nghi lễ được sử dụng.
12 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

NGƯỜI ĐẸP VÀ QUÁI VẬT – THE LOVERS


Chuyện cổ tích Đan Mạch, Trung Quốc | The Beauty and The Beast – China, Danish Fairy Tale

Ngày xưa, có một người đàn ông có ba cô con gái, họ đều rất
giỏi thêu thùa. Người cha, yêu quý cô con gái, thường hái hoa
trên đường về nhà cho con mình. Nhưng một ngày, ông không
thể tìm thấy bất cứ một bông hoa trên đường. Trong lúc mải
tìm kiếm, ông vô tình đi lạc vào vương quốc của Quái vật.
Nổi giận vì ông ta đã vào khu vườn của mình, Quái vật doạ
sẽ nhai ngấu nghiến ông. Quá sợ hãi, ông cầu xin sự tha thứ,
ông chỉ muốn hái hoa cho con gái mình. Quái vật đồng ý thả
ông ấy ra, nhưng ông phải hứa gả cô con gái cho nó. Ông ấy
lưỡng lự đồng ý.
Người đàn ông quay về nhà, nhưng cảm thấy tội lỗi, ông đã
nói không có chuyện gì. Nhưng lũ côn trùng của Quái vật đến
tấn công ông ngày càng nhiều cho đến khi ông kể hết toàn bộ
câu truyện.
Nghe xong câu truyện, hai cô chị từ chối lấy Quái vật, chỉ duy
nhất cô út là đồng ý. Cô đến chỗ Quái vật và giật mình trước
hàm răng gớm ghiếc và ánh mắt dữ tợn. Nhưng khi cô quen
dần với Quái vật, cô làm những công việc nhà, và nó cũng rất
tử tế với cô. Sau đó, cô phải lòng với con Quái vật.
Tuy nhiên, ngày nọ cô nghe rằng bố cô đang ốm và cô cầu xin Quái vật cho phép cô về nhà. Nó đồng
ý, nhưng lúc trở về sau mấy tuần khi cha cô khoẻ lại, cô thấy Quái vật đang chết dần trong đơn độc
và héo úa. Cô nhanh chóng lôi nó ra bờ sông và thả xuống. Nó lập tức biến thành một người đàn ông
đẹp trai. Anh nói rằng vẻ ngoài của mình bị nguyền rủa, và tình yêu của cô đã phá bỏ lời nguyền đó
Kể từ đó, hai người cùng nhau sắm rất nhiều quà đến gia đình cô và sống với nhau hạnh phúc.
13 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BA CÔNG CHÚA CỦA WHITELAND – THE CHARIOT


Chuyện cổ tích Na Uy, Na Uy | The Three Princesses of Whiteland – Norway, Norwegian Fairy Tale

Có chàng đánh cá tội nghiệp, một ngày rồi mà không bắt được
gì cả. Anh đang có ý định từ bỏ, một con cá thò đầu ra khỏi
mặt nước và hứa anh sẽ bắt được rất nhiều cá nếu anh hứa cho
nó cái bên dưới tạp dề vợ anh ta. Chàng ta đồng ý và cảm thấy
hạnh phúc với cuộc thương lượng cho đến khi anh phát hiện vợ
mình có thai và anh đã hứa con cá đứa con của mình. Vua của
vương quốc đó, hiểu được hoàn cảnh có khăn của anh, đồng ý
nhận nuôi đứa bé, cậu bé tên Halvor, và cậu bé sẽ tránh xa khỏi
nước. Nhưng khi Halvor lớn, cậu cảm thấy thu hút bởi nguồn
nước. Khi cậu đặt chân xuống thuyền, nó đi nhanh như tên đến
một nơi rất xa tên Whiteland.
Ở Whiteland, Halvor gặp ba công chúa xinh đẹp được bảo vệ
với ba tên quái vật ba đầu, sáu đầu và chín đầu. Bằng mưu trí
và sức mạnh, chàng giải cứu được ba cô công chúa và kết hôn
với cô em út xinh đẹp nhất. Sau đó, chàng sống cùng cô hạnh
phúc trong toà lâu đài của cô ấy trong sự giàu có, nhưng chàng
lại cảm thấy nhớ nhà. Khi chàng cầu xin công chúa được quay
về thăm nhà, nàng đưa chàng một chiếc nhẫn có thể đưa chàng
đi rồi quay về. Cô còn muốn chàng hứa sẽ làm theo những điều
cha chàng nói, mà không được phép nghe theo mẹ. Chàng đồng
ý và ngay lập tức quay về.
Khi chàng quay về, mẹ chàng muốn đưa chàng gặp nhà vua, nhưng người cha can ngăn không được
đi. Làm ngơ lời nói của cha mình, chàng đến gặp nhà vua và kể đầu đuôi câu chuyện. Khi nhà vua
nói rằng ông không tin những nàng công chúa có thể xinh đẹp hơn nữ hoàng, Halvor sĩ diện dùng
chiếc nhẫn gọi vợ mình để chứng minh nhà vua đã sai. Nàng công chúa xuất hiện, trách chàng đã
không nghe lời mình, cướp chiếc nhẫn và tự mình quay trở về.
Quá buồn, Halvor cố gắng quay lại Whiteland, nhưng không một ai biết nơi đó, không một vị vua,
hay loài động vật, hay loài chim. Chàng hỏi tất cả cho đến khi cá chó già (pike fish) nói nó biết công
chúa ở đâu. Chú cá dẫn Halvor quay trở lại với nàng công chúa, vừa kịp đến ngăn nàng kết hôn với
một người khác.
14 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

TAM LIN – STRENGTH


Chuyện cổ tích Scotland, Scotland | Tam Lin5 – Scotland, Scotland Fairy Tale

Có một cô gái tên Janet, người thường đi tắt qua những khu
rừng của một điền trang hoang vu. Vào một buổi tối trong khi
đi đường tắt, nàng gặp một người đàn ông đẹp trai và ăn mặc
lộng lẫy, cô ấy nghĩ anh ta là một chàng hoàng tử trong
chuyện cổ tích. Họ bắt đầu trò chuyện và tán tỉnh suốt cả buổi
tối, và Janet về nhà với tâm trạng rất vui vẻ. Nhưng vài tháng
sau, cô ấy nhận thấy mình mang thai. Gia đình cho cô ấy một
trong hai lựa chọn: hoặc bỏ đứa bé hoặc kết hôn. Janet ngó lơ
chúng và đi tìm cha của đứa bé.
Khi gặp lại chàng trai lần trước trong cũng khu rừng đó. Anh
ấy nói rằng mình tên là Tam Lin và mình không phải thần tiên
gì hết nhưng anh ta là chủ của điền trang này cho đến khi bị
bắt bởi Fae. Khi được hỏi thêm, Tam Lin nói anh ấy có thể
được tự do chỉ khi Janet bắt được con ngựa của anh ấy và
không để nó chạy mất.
Janet đồng ý, và tối ngày hôm sau cô ấy chờ đám rước hoàng
gia đi qua. Cô ấy thấy rất nhiều cận thần xinh đẹp và Nữ hoàng
cổ tích người đã đặt bẫy Tam Lin, và cuối cùng là Tam Lin.
Nhảy ra khỏi chỗ ẩn nấp, Janet tóm lấy Tam Lin và giữ anh
ta thật chặt. Nữ hoàng cười lớn và biến Tam Lin thành nhìn con vật theo trí tưởng tượng, một số loài
mà Janet chưa thấy bao giờ. Một trong số đó là Ammit, một phần sư tử, một phần hà mã, và một phần
cá sấu. Nó sẽ chỉ ăn những trái tim không thuần khiết.
Sau nhiều giờ vật lộn, Janet nghĩ rằng mình không thể giữ lâu hơn được nữa, bình minh ló rạng, Fae
tan biến, và phép thuật được hoá giải. Janet thả Tam Lin, và hai người sớm kết hôn và có nhiều đứa
con trong trang viên của Tam Lin.

5
Tam Lin là một nhân vật trong một có nguồn gốc ballad huyền thoại từ Scottish Borders, xoay quanh câu chuyện giải
cứu Tam Lin bởi tình yêu đích thực của mình từ Queen of the Fairies.
15 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

TU SĨ VÀ HƯƠU TRẮNG – THE HERMIT


Huyền thoại người Celt, Ireland | Druid6 and White Stag – Ireland, Celtic Legend

Tu sĩ và huơu trắng là một phần trong truyền thống của người


Celt. Tu sĩ là những người đàn ông hay phụ nữ làm thủ lĩnh
tôn giáo, nhà luật gia, truyền nhân, người điều chỉnh, thầy
thuốc, và những cố vấn chính trị. Họ truyền dạy bằng cách
truyền miệng, và mất nhiều năm để trở thành một tu sĩ thực
thụ. Tất cả tu sĩ đều được coi là thông minh và hiếu học. Trong
thần thoại, họ có thể dùng ma thuật và có khả năng tiên tri.
Hươu trắng là một sinh vật kỳ diệu của người Celt, đôi khi
được coi là thông điệp từ lòng đất. Nó là loài động vật khó
nắm bắt, khó bị bắt và giỏi một cách khác thường trong việc
lẩn trốn. Nó có trong một số thần thoại người Arthur báo trước
sự khởi đầu của một nhiệm vụ quan trọng, tượng trưng cho
cuộc hành trình tâm linh vĩnh cửu của nhân loại.
Một trong những tu sĩ nổi tiếng là chiến binh Bodhamall,
người phụ nữ đã nuôi dưỡng Fionn mac Cumhaill, thủ lĩnh
nổi tiếng của Fianna. Câu chuyện bắt đầu khi Cumhaill bị giết
và thay thế bởi đối thủ của anh ta, Goll mac Morna. Vợ của
Cumhaill, Muirne, con gái của tu sĩ Tadg mac Nuadat, sợ hãi
đứa con còn nằm trong bụng mình. Cô đã bỏ trốn đến nơi an
toàn của chị Cumhaill, chiến binh Druidess Bodhmall, và bạn đồng hành, chiến binh hung dữ Liath
Luachra. Trong ngôi nhà tách biệt, Muirne hạ sinh một bé trai, Fionn, và để cậu nuôi nấng bởi hai
người phụ nữ. Họ cùng nhau nuôi Fionn, tất cả những thứ họ biết về tu sĩ và chiến binh đều truyền
lại cho cậu trên những cuộc hành trình cho đến khi cậu đủ lớn để đối đầu với Goll mac Morna.
Một tu sĩ nổi tiếng khác là Cathbad, người có thể dự đoán được bi kịch và may mắn. Một người khác
là Amergin Glúingel, một tu sĩ có khả năng triệu hồi cơn bão ma thuật để ngăn chặn thuyền của quân
thù không thể cập bến. Đó cũng là Gallizenae, một nhóm tư tế nữ sống ở hoàn đảo tách biệt và có khả
năng đánh thức biển và cơn gió bằng câu thần chú của họ, và tự biến mình thành những loài động vật
khác nhau, cũng có thể chữa bệnh và đoán trước được tương lai cho những ai có nhu cầu.

6
Druid là thành viên của tầng lớp cao cấp trong nền văn hóa Celt cổ đại. Có lẽ được nhớ đến nhiều nhất với tư cách là
các nhà lãnh đạo tôn giáo, họ cũng là cơ quan pháp lý, người xét xử, người bảo vệ truyền thuyết, chuyên gia y tế và cố
vấn chính trị.
16 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

ANASI – WHEEL OF FORTUNE


Thần thoại Akan, Ghana | Anasi – Ghana, Akan Mythology

Anansi là chú nhện mưu mẹo có thể liên tục đưa anh ta vào và
thoát ra khỏi khó khăn. Có rất nhiều câu chuyện liên quan đến
Anansi và sự tinh ranh của anh ta, nhưng một trong những giai
thoại nổi tiếng nhất trong cuốn sách “All The World”.
Vào thời điểm sơ khai của thế giới, Cha bầu trời7, Nyame, nắm
giữ tất cả câu truyện trên thế giới. Chú nhện Anansi nghĩ rằng
điều đó thật buồn chán. Nó sử dụng sợi tơ của mình để trèo lên
bầu trời để đến nhà của Nyame và yêu cầu ngài bán những câu
truyện của ông ấy. Nyame rất ấn tượng khả năng của chú nhện
mà không một loài vật nào có thể làm được, nhưng ông ấy từ
chối đề nghị. Sau một hồi tranh luận, Nyame đồng ý bán câu
truyện nếu Asani mang về bốn sinh vật nguy hiểm nhất: trăn
Onini, báo Osebo, ong Mmoboro và Mmoatia tàng hình.
Để bắt con trăn Onini, Anansi giả vờ nghi ngờ về chiều dài của
con trăn. Nó liền đề nghị trói con trăn lại để đo, lập tức khuất
phục được chú trăn. Để bắt Osebo, Anansi đào một cái hố để
con báo nhảy vào đó. Nó đề nghị nắm lấy sợ tơ để thoát ra và
con mèo khổng lồ bị rối bời trong tơ nhện. Để bắt chú ong
Mmoboro, Anansi làm giả một trận bão, đề nghị con ong chỗ
chú ẩn an toàn bên trong một trái bầu rỗng, để bắt nó. Đối với
Mmoatia, Anasi làm con búp bê vị ngọt. Nó điều khiển con búp bê để Mmoatia vồ lấy và mắc bẫy.
Anasi quay lại nhà của Nyame với Onini bị trói chặt, Osebo nằm trong tơ nhện, Mmoboro bị bẫy
trong trái bầu, và Mmotia bị dính vào con búp bê. Nyame công nhận mình bị đánh bại và phong cho
Anansi là ông trùm của tất cả các câu truyện.
Ghi chú: Trang phục của Anansi là trang phục người Kente với hoạ tiết đọc là “obi nkye obi kwan
mu si,” nghĩa là “không sớm thì muộn, bạn sẽ đi vào con đường của một người khác.”

7
Sky-father: Trong thần thoại, cha bầu trời là một thuật ngữ cho một khái niệm định kỳ trong các tôn giáo đa thần của
một vị thần bầu trời được gọi là "cha", thường là cha của một vị thần và thường là trị vì hoặc là cựu vương của các vị
thần.
17 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

AMHAENG-EOSA – JUSTICE
Huyền thoại người Hàn Quốc, Hàn Quốc | Amhaeng-Eosa – Korea, Korean Legend

Amhaeng-Eosa, hay Thanh tra viên bí mật hoàng gia, là một


nhân vật lịch sử có thật, được bổ nhiệm bởi nhà vua, với sức
mạnh trừng trị tham quan và khuyến khích những ai đứng đắn.
Họ bí mật thâm nhập vào những nơi khác nhau và dùng danh
tính giả để điều tra những quan chức chính phủ. Sau đó, họ lộ
thân phận thật của mình với mapae, lệnh bài chứng minh thân
phận thật của mình. Trong thực tế, họ xuất hiện trong những
vở kịch và văn chương, thậm chí trong chiều đại Joseon, họ
là những huyền thoại.
Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất là câu chuyện của
Chunhyang. Trong câu chuyện, có một chàng điển trai Yi
Mongryong đem lòng yêu và kết hôn với cô gái xinh đẹp
Chunhyang. Nhưng không may, cậu phải đến Seoul đế huấn
luyện trở thành Amhaeng-Eosa. Một viên quan mới của triều
đình, kẻ đê tiện Pyon, cai quản khu vực này. Chunhyang lập
lời thề sẽ đợi chàng Yi Mongryong và đưa anh một chiếc nhẫn
để anh nhớ đến cô. Nhưng khi anh đi khỏi, tên hèn hạ Pyon
cố gắng chiếm lấy cô để biến nàng thành hầu gái của hắn.
Chunhyang cố gắng chống trả, vô tình đã chọc giận hắn, nên
hắn đã tống cô vào tù. Trong khi đó, Yi Mongryong hoàn thành bài kiểm tra Amhaeng-Eosa và bí
mật quay về làng điều tra mớ hỗn độn mà Pyon gây ra. Yi Mongryong cải trang thành người ăn xin
và biết được những tội ác của Pyon, ví dụ như không hoàn thành bổn phận, tổ chức nhiều tiệc tùng
hoang phí, và thường xuyên lạm dụng chức quyền để ức hiếp quần chúng.
Vào tiệc sinh nhật của Pyon, hắn đã buộc tội về sự trung thành của Chunhyang, Yi Mongryong xuất
hiện với thân phận một Amhaeng-Eosa bí mật đã vạch trần Pyon về toàn bộ hành vi sai trái của hắn.
Pyon lập tức bị tước quyền và một viên quan mới được thay thế.
Trong lúc đó, Chunhyang cảm thấy hạnh phúc vì được giải cứu, nhưng ban đầu không công nhận Yi
Mongryong và từ chối tình cảm của anh. Mãi đến khi anh trao chiếc nhẫn cho cô. Cô liền vui mừng
khôn xiết và cả hai cùng nhau sống hạnh phúc.
18 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÔNG CHÚA NGỦ TRONG RỪNG – THE HANGED MAN


Chuyện cổ tích Ý, Ý | Sleeping Beauty8 – Italy, Italian Fairy Tale

Ngày xửa ngày xưa, có một nhà vua và hoàng hậu, rất lâu
không có một mụn con nào, cuối cùng được ban phép sinh
được một công chúa xinh xắn. Bảy bà tiên được mời đến bữa
tiệc ban phước, nhưng gia đình đức vua quên mất mời bà tiên
thứ tám, khiến bà ta nổi giận. Trong khi sáu bà tiên mang
những điều tốt đẹp và đức hạnh đến cho cô chúa nhỏ, thì bà
tiên thứ tám nguyền rủa cô ấy sẽ chết khi chạm ngón tay vào
trục quay của khung cửi. Bà tiên thứ bảy không thể hoá giải
lời nguyền. Thay vào đó, bà ấy ban phép công chúa sẽ chìm
vào giấc ngủ sâu và sẽ không tỉnh dậy cho đến khi nàng nhận
được nụ hôn của hoàng tử.
Lo lắng đến tính mạng cô công chúa, nhà vua ra lệnh đốt tất
cả các khung cửi. Mười sáu năm sau, cho đến một ngày, khi
nhà vua và hoàng hậu ra ngoài, công chúa thấy một bà cụ đang
dệt khung cửi. Vì tò mò, công chúa chạm tay vào con quay và
vô tình bị đâm. Khi nhà vua và hoàng hậu quay trở về, nàng
công chúa đã chìm trong giấc ngủ.
Quá đau buồn, nhà vua và hoàng hậu để công chúa nằm trên
một chiếc giường đẹp nhất trên toà tháp cao nhất. Khi các bà
tiên quay lại và hô biến cả lâu đài chìm vào giấc ngủ, và xung quanh là dây gai và cây mâm xôi bảo
vệ lâu đài. Bởi vậy, toà lâu đài và tất cả thần dân nằm im trong suốt một ngàn năm cho đến khi một
hoàng tử trẻ tò mò đi qua đó.
Chàng hoàng tử được nghe kể về nàng công chúa ngủ hơn ngàn năm, chàng dũng cảm phá bỏ cây
mâm xôi và trèo lên toà tháp cao nhất để gặp công chúa. Hoàng tử bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của nàng
công chúa, và bằng nụ hôn chân thành, nàng ấy đã tỉnh lại. Họ yêu nhau, và khi họ bước xuống từ từ
cầu thang, cả toà lâu đài cũng bừng tỉnh. Họ nhanh chóng kết hôn, và sống hạnh phúc.

8
Valknut (dây chuyền trên cổ công chúa) là một biểu tượng bao gồm ba hình tam giác lồng vào nhau. Nó xuất hiện trên
nhiều đồ vật từ hồ sơ khảo cổ của các dân tộc Đức cổ đại. Thuật ngữ valknut có nguồn gốc từ thời kỳ hiện đại. Các học
giả đã đề xuất nhiều cách giải thích cho biểu tượng, đôi khi liên kết nó với thần Odin, và nó đã được so sánh với biểu
tượng ba sừng được tìm thấy trên Đá Snoldelev vào thế kỷ thứ 9, có thể có liên quan đến nó.
19 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

VUA GẤU TRẮNG VALEMON – DEATH


Chuyện cổ tích Na Uy, Na Uy | White Bear King Valemon – Norway, Norwegian Fairy Tale

Một gã tiều phu nghèo khổ có ba cô con gái. Một ngày nọ, mộ
con gấu trắng khổng lồ đến trước cửa nhà họ, hứa hẹn một
cuộc sống giàu sang nếu một trong ba cô con gái đến sống với
nó trong toà lâu đài. Hai cô chị xinh đẹp cảm thấy rất sợ hãi.
Chỉ có cô em út, người có trái tim ngọt ngào, đồng ý điều kiện
của Gấu trắng và trèo lên lưng nó.
Gấu trắng mang cô đi rất xa đến một toà lâu đài rộng lớn, nơi
mà tất cả điều ước của cô trở thành hiện thực. Vào đêm, có
thứ gì đó trèo lên giường ngủ bên cạnh cô, mặc dù cô không
biết đó là gì.
Sau một khoảng thời gian cô ở toà lâu đài, cô xin phép Gấu
trắng về thăm gia đình. Nó đồng ý và bắt cô hứa sẽ không
được nghe lời dặn của chị cô. Hai chị khi được nghe câu
truyện bí ẩn, thuyết phục em mình mang cây nến lại gần
giường để biết ai đang ngủ cùng cô. Đêm hôm sau, cô mang
cây nến đến gần giường và thấy một chàng trai rất đẹp trai. Ba
giọt sáp nến rơi vào áo chàng trai, và chàng tỉnh dậy rồi khóc.
Chàng kể rằng mình là vua Valemon, chàng bị phù phép thành
Gấu trắng, nhưng vì cô ấy đã thấy chàng, chàng bắt buộc phải
kết hôn với con gái của nữ hoàng phù thuỷ độc ác. Nhanh như chớp, chàng và toàn bộ lâu đài biến
mất, để lại cô trong giá lạnh và cô đơn.
Cô đi tìm chàng, và nhờ sự trợ giúp của Gió phương bắc để đưa cô đến lâu đài của nữ hoàng độc ác,
nơi mà mặt trời mọc đằng tây và mặt trăng mọc đằng đông. Cô tìm thấy chàng ngay lúc đám cưới
chuẩn bị bắt đầu và đấu với con con gái của nữ hoàng độc ác: ai làm sạch được sáp nên trên áo nhà
vua sẽ được phép kết hôn với chàng. Cô gái kia đồng ý, nhưng khi cô thử, trái tim đen tối của cô chỉ
càng làm áo bẩn thêm. Cô con gái của tiều phu sau đó, với trái tim thuần khuyết, chiếc áo trở nên
trắng sáng như mới.
Cô con gái của nữ hoàng chấp nhận phần thua, còn cô con gái của gã tiều phu và chàng hoàng tử sau
đó kết hôn và sống với nhau hạnh phúc.
20 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BỒ TÁT AVALOKITESHVARA – THE TEMPERANCE


Bồ Tát, Ấn Độ | Bodhisattva Avalokiteshvara – India, Buddhist Bodhisattva

Avalokiteshvara là bồ tát của lòng trắc ẩn, luôn cảm thấy phải
giúp đỡ tất cả sinh vật khỏi sự chịu đựng. Có thể trong nhiều
trạng thái giới tính, độ tuổi và hình dạng khác nhau, Avalo-
kiteshvara nhìn thấy rõ tất cả mọi sinh vật trong vũ trụ, và
thấy được bao nhiêu trong số họ thêu dệt nên câu chuyện bởi
sự chấp trước và ảo tưởng của họ. Trói buộc bản thân họ trong
vòng quay sinh tử, các sinh vật trong vũ trụ không thể đạt
được cảnh giới giác ngộ.
Khi Bồ tát buồn rầu, nước mắt chảy xuống từ khoé mắt, hỏi
các Phật tổ, những người đã đạt đến cảnh giới giác ngộ và
thoát được vòng luân hồi vĩnh cửu, xin họ lời khuyên làm sao
để giúp đỡ tất cả chúng sinh. Phật tổ nói với Avalokiteshvara
rằng nếu con muốn giúp đỡ vạn vật trong vũ trụ này, con phải
tràn đầy sự tử tế, tình yêu, và lòng trắc ẩn và phải không bao
giờ bỏ cuộc hoặc nếu không sẽ cảm thấy mệt mỏi.
Avalokiteshvara thề rằng sẽ dùng lòng trắc ẩn của mình để
giải phóng chúng sinh trong vũ trụ này. Họ dùng sức mạnh
của mình để nhìn thấy rõ những sinh linh cần được giúp đỡ,
như những vị vua nhỏ, tướng lĩnh, nhà sư, ăn mày, bà vợ, cô
gái trẻ, trẻ em, động vật, rồng, quái vật…
Avalokiteshvara làm việc không mệt mỏi và giúp đỡ chúng sinh. Nhưng khi Bồ tát nhìn lại, số lượng
chúng sinh khổ đau không hề giảm bớt, vì sinh vật trên trần gian là vô hạn. Vì thế, đầu họ tách ra
thành mười một cái, mười khuôn mặt nhân từ và một khuôn mặt dữ tợn, bởi vì đôi khi yêu thương là
cần thiết, nhưng thông điệp của sự giác ngộ cũng cần phải được truyền đi. Sau đó họ mọc ra nghìn
tay, mỗi lòng bàn tay mọc ra một con mắt, để nhìn thấy rõ hơn và làm những công việc cần thiết lan
truyền sự giác ngộ.
Ghi chú: Avalokiteshvara là Bồ tát rất nổi tiếng và thông dụng. Mọi người tin rằng đã thấy họ tại
nhiều thời điểm trong cuộc đời.
21 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BOITATÁ – THE DEVIL


Thần thoại Brazil, Brazil | Boitatá – Brazil, Brazilian Mythology

Huyền thoại kể rằng từ xa xưa, khi màn đêm không bao giờ
kết thúc. Sâu thẳm rừng Amazon, màn đêm cứ tiếp diễn hàng
ngày, hàng tuần và hàng tháng. Trong đêm tối, mọi người bắt
đầu chết đói dần vì không thể trồng trọt lương thực. Quá tối
để thấy bất kì cái gì, tối đến mức họ phải chặt gỗ để làm đuốc.
Cảm thấy bị áp bức, tất cả các loài động vật và con người sợ
hãi. Trời bắt đầu mưa.
Trời mưa không có hồi kết. Khu rừng chìm trong lũ lụt, và rất
nhiều sinh vật và con người trở nên yếu ớt, đói và lạnh, bị
nhấn chìm trong dòng nước chảy vô hạn.
Sau đó, một loài rắn lớn ngủ trong sâu khu rừng tỉnh giấc. Nó
cảm thấy thấy đói. Nó trườn một cách dễ dàng trong khu rừng
ẩm ướt vì nó biết bơi và thân thuộc trong đêm tối. Nó ăn tất
cả các xác chết động vật trôi nổi, nó chỉ ăn phần mà nó thích
nhất – đôi mắt. Đôi mắt của các loài động vật loé sáng như
những tia sáng mặt trời, cho nên mỗi đôi mắt ăn vào, con rắn
trở nên sáng rực hơn. Nó ăn rất nhiều đôi mắt tràn đầy ánh
sáng, nên đã biến thành ngọn lửa, và bởi sự sáng chói của
mình, nó đã xua đuổi những cơn mưa và màn đêm và mang
sự ấm áp quay trở lại khu rừng. Con rắn đó được biết đến là Boitatá.
Cho đến ngày nay, Boitatá được coi là kẻ bảo vệ khu rừng và cánh đồng. Đôi mắt sáng của nó có thể
nhìn được rõ trong bóng đêm, và nó sẽ giết bất kỳ ai muốn đốt rừng, ăn mắt chúng. Bất kỳ ai không
may mắn nhìn thấy đôi mắt rắn sẽ bị mù, phát điên và thậm chí chết.
22 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

RAPUNZEL (CÔNG CHÚA TÓC MÂY) – THE TOWER


Chuyện cổ tích Đức, Đức | Rapunzel – Gemany, German Fairy Tale

Có một cặp vợ chồng nghèo mong muốn có một cô con gái.


Khi người vợ mang thai, bà ấy lại thèm ăn những chiếc lá
Rapunzel của hàng xóm. Nhưng thật không may, hàng xóm
của họ là phù thuỷ, nên người chồng cảm thấy sợ sệt không
dám hỏi xin một ít. Nhưng người vợ cảm thấy mệt mỏi và
mong muốn lá Rapunzel đến gần chết, cho nên người chồng
đã âm thầm trèo qua hàng rào nhà phù thuỷ và ăn trộm một ít.
Chưa kịp thoát ra, ông ấy đã bị bắt. Mụ phù thuỷ đồng ý cho
ông ta mang tất cả lá Rapunzel mà vợ ông ấy muốn, đổi lại họ
phải mang đứa bé gái cho bà ta. Người đàn ông đồng ý, và
chín tháng sau đứa bé trào đời, được đặt tên là Rapunzel, và
cô bé được mang cho mụ phù thuỷ một cách miễn cưỡng.
Rapunzel lớn lên xinh đẹp với mái tóc dài vàng óng. Lên mười
hai tuổi, mụ phù thuỷ nhốt cô ấy trong một toà tháp không bậc
thang và không cửa, chỉ duy nhất một phòng và một cửa sổ.
Toà tháp bao phủ bởi dây gai. Để thăm cô bé, mụ phù thuỷ
đứng ở dưới và bảo Rapunzel thả mái tóc để bà ta có thể trèo
lên. Một ngày nọ, một vị hoàng tử nghe thấy tiếng hát trong
trẻo của Rapunzel cùng lúc mà mụ phù thuỷ cũng đến thăm
nàng ấy. Sau khi mụ phù thuỷ rời khỏi, hoàng tử lên toà tháp
Rupanzel. Cô ấy rất ngạc nhiên, nhưng họ sớm làm quen, yêu nhau, và đồng ý kết hôn. Họ lên kế
hoạch bỏ trốn, hoàng tử bỏ đi để lấy cho cô ấy một tấm lụa.
Khi mụ phù thuỷ quay lại, bà ấy ngay lập tức phát hiện Rapunzel đang lừa dối. Nổi trận lôi đình, bà
ta cắt mái tóc của Rapunzel và đày cô ấy đến vùng đất hoang vu. Khi hoàng tử quay lại, bà ta đẩy
chàng ra khỏi toà tháp rơi vào bụi gai, khiến chàng bị mù.
Chàng hoàng tử bị mù trong nhiều năm, khi nghe thấy tiếng hát của Rapunzel. Chàng đi theo tiếng
ca, và họ gặp nhau. Rapunzel khóc trong hạnh phúc, và những giọt nước mắt rơi vào mắt chàng hoàng
tử khiến chúng sáng trở lại. Họ quay trở lại vương quốc và sống với nhau hạnh phúc.
23 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CHỊ GÁI ALYONUSHKA VÀ EM TRAI IVANUSHKA – THE STAR


Chuyện cổ tích Nga, Nga | Sister Alyonushka and Brother Ivanushka – Russia, Russian Fairy Tale

Có một cô gái mồ côi Alyonushka, sống với người em trai,


Ivanushka. Ivanushka quá bé để lao động, nên cậu luôn bám
theo chị gái mình đi làm việc trong rừng. Hành trình quá nóng
và dài với cậu bé, cho nên khi cậu thấy dấu chân một con bò
có đầy nước, cậu xin chị uống nước. Cô ấy động viên cậu cố
gắng chờ đến lúc tìm thấy giếng. Nhưng cậu càng lúc càng
nóng và khát, nên khi thấy một dấu chân con dê có đầy nước.
Cậu đã không xin phép chị mình, rồi vục đầu xuống uống.
Ngay lập tức, cậu biến thầnh một con dê trắng, vì trong nước
có sự phù phép của mụ phù thuỷ.
Alyonushka sau khi biết em mình biến thành dê, nàng bắt đầu
khóc. Nàng thề sẽ chăm sóc cậu mãi mãi. Sau đó một thương
nhân đi qua và thấy cô bé đáng yêu Alyonushka bên đường
cùng một con dê bên cạnh. Chàng hỏi vì sao cô khóc, và cô
kể cho chàng toàn bộ câu chuyện, chàng ngay lập tức yêu sự
thuần khiết của cô và cầu hôn cô ngay lập tức. Alyonushka
đồng ý, họ cùng nhau làm đám cưới, và cả ba sống với nhau
hạnh phúc.
Tuy nhiên, một ngày nọ, mụ phù thuỷ bắt cóc em trai dê và
dùng nó để dụ Alyonushka đến bờ sông. Bà ta bắt cô, trói cô lại, và buộc cô với hòn đá rất nặng trước
khi vứt cô xuống sông. Ivanushka trốn khỏi mụ phù thuỷ. Cậu quay trở về nhà và phát hiện mụ phù
thuỷ biến thành Alyonushka. Chồng của Alyonushka, vì đi xa, nên không biết sự khác biệt của vợ
mình. Mụ phù thuỷ cải trang cố gắng thuyết phục chàng ăn thịt con dê. Nhưng Ivanushka dẫn anh
đến con sông và cứu Alyonushka một cách kịp thời. Biết bị mụ phù thuỷ lừa dối, Alyonushka và
chồng mình giết bà, lời nguyền lên cậu được phá bỏ, cậu bé trở lại thành con người.
24 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÔNG CHÚA KAGUYA – THE MOON


Chuyện cổ tích Nhật Bản, Nhật Bản | Princess Kaguya – Japan, Japanese Fairy Tale

Một ngày nọ, ông lão, mà không có lấy một mụn con, đi qua
một đốt tre phát sáng bí ẩn. Ông cắt và mở ra thấy một cô gái
bé nhỏ xinh xắn bên trong. Cảm thấy vui mừng, ông ấy mang
cô bé về nhà cho vợ ông ấy, và họ cùng nhau nuôi nấng cô bé,
đặt tên cô bé là Kaguya. Sai đó, từng đốt tre mà ông ấy cắt đều
có vàng trong đó – ông trở nên giàu có và mua cho cô con gái
nhiều bộ quần áo đẹp và cho cô đi học ở nơi tốt nhất. Kaguya
càng lớn càng xinh đẹp và nhanh chóng sắc đẹp của cô được
lan đi khắp nơi.
Có năm chàng hoàng tử ngỏ ý đến cầu hôn cô ấy, và mỗi người
đều nhận được một yêu cầu. Người thứ nhất phải mang về một
bát ăn xin bằng đá của Bồ tát Shakyamuni Ấn Độ; người thứ
hai phải mang về trang sức quý từ hòn đảo huyền bí Horai;
người thứ ba phải mang về chiếc áo choàng huyền thoại của
chuột lửa Trung Quốc; người thứ tư phải mang về trang sức
màu sắc từ cổ con rồng; người cuối cùng phải mang về vỏ ốc
sinh ra từ những con én. Cả năm hoàng tử đều thất bại, và
Kaguya không lấy ai cả. Sau đó Quốc vương Nhật Bản đến hôn
cô ấy, cô cũng từ chối.
Khi mùa hè tới, Kaguya cảm thấy bồn chồn và lo lắng, vì cảm
thấy rắc rối nhỏ sắp đến. Khi những bông hoa sen nở từ bùn lầy, cô thừa nhận với cha mẹ nuôi rằng
mình là công chúa Mặt trăng. Cô được mang đến Trái đất để được bảo vệ trong cuộc chiến tranh thiên
giới. Khi chiến tranh kết thúc, gia đình muốn cô ấy phải quay trở về. Cô được lựa chọn ở lại với cha
mẹ nuôi hoặc quay về Mặt trăng và quên cuộc sống của mình trên trần gian. Đó là một lựa chọn khó
khăn đối với cô ấy.
Tuỳ tùng trên thiên đình nhanh chóng xuống đón công chúa Kaguya, cô đã chọn đi cùng họ. Cùng
với những giọt nước mắt, cô nói lời tạm biệt với cha mẹ nuôi. Khi áo choàng khoác lên người cô,
nước mắt biến mất. Cô quên cha mẹ đã nuôi mình và quãng thời gian cô ở trần thế, và quay trở lại
Mặt trăng.
25 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

THẦN MẶT TRỜI RA – THE SUN


Thần linh Ai Cập, Ai Cập | Sun God Ra – Egypt, Egyptian Deity

Thuở sơ khai, thần mặt trời, Ra, nổi lên từ nguồn nước của
Nun như một khối đá Benben9. Cũng là lúc mặt trời mọc và
lặn trên bầu trời lần đầu tiên. Ra vô cùng toàn năng và có thể
biến thành nhiều hình dạng. Có thể là mặt trời buổi sáng
Khepera vào buổi bình minh, có thể mặt trời tròn vào trưa, và
cũng là mặt trời lúc hoàng hôn. Sức mạnh của ông ẩn trong
những cái tên bí mật và trong khả năng của ông, biến thành
cái mà ông đã đặt tên. Ông đã gọi tên Shu và Tefnut, thần
không khí và thần độ ẩm. Chúng sinh ra thần trái đất Geb, và
thần bầu trời Nut. Ra cố gắng chia tách Geb và Nut bằng thần
Shu, nhưng Nut vẫn sinh ra các thần linh Osiris, Set, Isis,
Nepthys10, và Horus the Elder. Ra đặt tên tất cả mọi thứ ở Ai
Cập, cả loài người, và cho mình là Pharaoh của tất cả.
Bởi vậy Ra đã cai quản hàng ngàn năm, nhưng vẫn trong hình
dáng của con người và buộc phải già đi. Cuối cùng, loài người
chế nhạo vẻ ngoài già nua, khiến Ra nổi giận. Ông cử người
con gái Sekhmet11 tàn sát loài người. Ra đã phải ngăn cản sự
hung hăng của cô bằng cách chuốc cô say. Trong khi đó, thần
Isis tạo ra loài rắn độc rừ nước bọt của Ra để quay lại cắn Ra.
Già nua và ốm yếu, Ra dần dần chết. Isis hứa sẽ chữa cho ông,
nếu ông nói cho cô cái tên bí mật. Ông lưỡng lự làm theo, và ngay lập tức ông được cứu chữa, Isis
trở thành thần của phép thuật và cuộc sống.
Trước khi Ra trở nên quá già, ông ta quyết định trao quyền cai quản trái đất cho con người. Ông chọn
một nơi trên thiên đàng, di chuyển trên bầu trời và đi xuống lòng đất trên con thuyền trên mười hai
phần của Duat12 trong buổi tối. Mặt dù hình trình rất nguy hiểm, Ra được thần Nut tái sinh mỗi sáng.

9
Benben là gò đất phát sinh từ vùng nước nguyên thủy Nu nơi vị thần sáng tạo Atum định cư. Đá Benben (còn được gọi
là kim tự tháp) là đá trên cùng của kim tự tháp. Nó cũng liên quan đến tháp chuông.
10
Nephthys hay Nebthet, là một trong 9 vị thần tối cao của Ai Cập cổ đại. Bà là con gái của thần đất Geb và nữ thần bầu
trời Nut, là em gái của các thần Osiris, Isis và Set, đồng thời cũng là vợ của ác thần Set. Tên của bà có nghĩa là "Người
đàn bà trong nhà". Bà thường xuất hiện dưới dạng một con diều hâu hoặc một nữ thần đội ngôi nhà trên đầu. Mái tóc của
Nephthys tượng trưng cho những cuộn vải lanh dùng trong việc ướp xác. Người ta nói rằng, 2 chị em Isis và Nephthys
giống nhau đến nỗi chỉ khi đội vương miện vào thì mới phân biệt được 2 bà.
11
Sekhmet là một nữ thần chiến tranh của Ai Cập cổ đại. Tên bà có nghĩa là "Người mạnh mẽ" hay "Nữ thần của nỗi
khiếp sợ". Bà có cái đầu của sư tử, đội đĩa mặt trời trên đầu, tay cầm quyền trượng và biểu tượng ankh. Một số sử gia cho
rằng, thần Sekhmet đến từ Sudan (phía nam Ai Cập cổ đại trước kia), nơi có nhiều sư tử.
12
Duat là vương quốc của người chết trong thần thoại Ai Cập cổ đại. Nó đã được biểu thị bằng chữ tượng hình như một
ngôi sao trong vòng tròn. Thần Osiris được cho là chúa tể của thế giới ngầm. Ông là xác ướp đầu tiên và ông đã nhân
cách hóa sự tái sinh và cuộc sống sau khi chết.
26 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

TÔN NGỘ KHÔNG – JUDGMENT


Thần thoại Trung Quốc, Trung Quốc | Sun Wukong, The Money King – China, Chinese Mythology

Có một tảng đá thần trên một ngọn núi sau khi vỡ ra có một
con khỉ trong đó. Khỉ thần hoà nhập với những con khỉ khác
và nhanh chóng trở thành thủ lĩnh, tự phong cho mình là Tề
thiên đại thánh, Tôn Ngộ Không. Chàng ta đã đánh bại những
con rồng của bốn vùng biển. Trong chiến thắng, chàng được
tặng Gậy Như Ý; áo giáp vàng; mũ lông phượng hoàng; và
giày đi trên mây. Với sức mạnh đó, chàng tự phong mình bất
khả chiến bại, thậm trí xuống Âm phủ để xoá tên mình trong
cuốn sổ sinh tử.
Thiên đình vô cùng ngưỡng mộ và mời hắn lên thiên đình
nhưng không đối xử với lòng kính trọng. Tức giận, Tôn Ngộ
Không đã ăn đào bất tử, tiên đơn và uống rượu thánh. Sức
mạnh của hắn trở nên vượt quá khả năng đánh bại của quân
lính trên Thiên đình. Thiên đình liền nhờ sự giúp đỡ của Phật
tổ.
Phật tổ cho rằng Tôn Ngộ Không không thể thoát khỏi ngài.
Con khỉ tự mãn đồng ý và bay đến nơi tận cùng của trời đất,
nơi mà hắn thấy năm cái cột. Hắn ta nhảy lùi lại và rơi đúng
vào lòng bàn tay Phật tổ. Và hắn thấy ngạc nhiên là năm cái
cột chính là năm ngón tay của Phật tổ.
Phật tổ đã giam Tôn Ngộ Không tận năm trăm năm, cho đến khi hắn được giải thoát bởi Đường Tăng
trên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh. Sau đó còn thêm hai đầu đệ, nhóm bọn họ vượt qua bao nhiêu khổ
ải. Tôn Ngộ Không học được nhiều bài học của Phật tổ, trước khi hoàn thành nhiệm vụ và quay trở
về. Cuối cùng, Tôn Ngộ Không gặp Phật tổ một lần nữa. Lần này Phật tổ ban cho nó sự tự do và được
ban sức mạnh vì sự cống hiến của mình.
27 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

HINEMOA VÀ TUTANEKAI – THE WORLD


Huyền thoại Maori, New Zealand | Hinemoa and Tutanekai – New Zealand, Maori Legend

Rất lâu về trước, có một tộc trưởng vĩ đại sinh sống ở Owhata
trên bờ hồ Rotohua ở New Zealand. Ông có một cô con gái
xinh đẹp tên Hinemoa, và rất nhiều chàng trai muốn ngỏ lời
cầu hôn nhưng cô chỉ để mắt đến chàng Tutannekai đẹp trai.
Tutanekai cũng say mê Hinemoa, nhưng chàng biết rằng địa
vị của mình thấp kém so với cha của Hinemoa, khó mà để ông
chấp nhận anh như một người con rể. Anh không chỉ là một
tohunga, một thợ lành nghề, mà còn là một người có thể làm
hoa Kōwhai13 nở một cách tự nhiên để có được sự ngưỡng mộ
của người yêu mình. Anh thường nhìn cô từ phía xa, bởi vì
anh sống khá xa ở giữa hồ của đảo Mokoia, anh không được
gặp cô thường xuyên. Cuối cùng, chàng thổ lộ tình cảm với
Hinemoa, và cô ấy cũng vậy, cả hai kết hôn bất chấp sự phản
đối của cha cô. Họ cùng bàn xem cách tốt nhất cần phải làm
để Hinemoa ăn trộm chiếc thuyền trong buối tối đen như mực
và đẩy nó đến Tutanekai. Còn về phần Tutanekai, anh chơi
sáo để dẫn đường cho cô và cho cô biết ở bờ biển đã sẵn sàng.
Nhiều tối chơi sáo, nhưng Hinemoa không đến. Tộc trưởng
nghi ngờ ý định của Hinemoa và ra lệnh kéo thuyền ra xa mỗi
tối. Vô cùng tuyệt vọng, Hinemoa cuối cùng cũng quyết định
buộc những quả bầu rỗng vào quần áo của cô để giữ cô nổi và bơi qua hồ.
Hinemoa bơi trong đêm, nghỉ ngơi trên quả bầu nổi khi cô cảm thấy mệt, đi theo tiếng sáo của
Tutanekai khi cô lạc đường. Quá kiệt sức, cô cuối cùng cũng đến bờ và hồi sinh trong một bể nước
ấm. Cô chọc ghẹo và dụ Tutanekai bên cạnh cô, và họ kết hôn ngay lập tức.
Sáng hôm sau, mọi người mới biết Tutanekai và Hinemoa đã kết hôn. Vì vậy, tộc trưởng buộc phải
chấp nhận và chúc phúc cho hai người, và cặp đôi sống hạnh phúc mãi mãi.

Kōwhai là những cây họ đậu thân gỗ nhỏ trong chi Sophora có nguồn gốc từ New Zealand. Có tám loài, là cây lớn nhất.
13

Môi trường sống tự nhiên của chúng nằm cạnh những con suối và bên rìa rừng, ở những vùng đất thấp hoặc núi non.
28 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

RƯỢU SAKE CỦA MATSUO – ACE OF CUPS


Thần thoại Nhật Bản, Nhật Bản | Matsuo’s Sake – Japan, Japanese Mythology

Theo Thần đạo (Shintonism14), Nhật Bản là xứ sở của vô số


thần linh, được gọi là kami. Vài kami là vị thần nhỏ của những
ngôi làng nhỏ hay một con đường cụ thể. Vài kami lớn hơn
của các nguồn lực vĩ đại, như mặt trời hay mặt trăng, và vài
kami là cả một ngọn núi hay con sông. Dựa vào mức độ quan
trọng, tất cả kami tập trung một lần một năm tại điện thờ
Izumo Oyashiro trong một tháng trong Kami-ari-zuki, hay
tháng của các vị thần. Lúc đó, các vị thần sẽ bàn luận về các
vấn đề quan trọng. Ví dụ, khi là mối quan hệ, trồng trọt, và
xây dựng đất nước, được gọi là Okuninushi, quyết định những
ai sẽ cùng với ai cho năm sắp tới. Nhưng có khi là lúc kami
gặp nhau và cùng nhau tiệc tùng.
Một năm nọ kami Matsuo muốn gây ấn tượng và làm vui lòng
nhưng vị thần khác. Cho nên ông mang gạo từ Arashiyama và
nước từ Kyoto ủ thành rượu sake đầu tiên. Tất cả các kami
đều thích nó và trở thành thứ đồ uống của kami. Matsuo trở
thành thần của sake, và rất nhiều người làm rượu (brewery)
bắt đầu hợp tác với ông. Nhưng quan trọng rằng, sake trở
thành thứ đồ uống thiết yếu dâng lên kami.
Trong thời gian lễ hội, mọi người dâng sake lên kami để cảm ơn và chúc mừng. Các kami đón nhận
món quà đó và dâng hiến nó, vì vậy con người trở nên gần gũi hơn với các vị thần. Sake đã từng dùng
xua đuổi ác quỷ và ban phước lành, và thậm trí dùng trong các lễ cưới.
Sake mang năng lượng nên tất cả các loài rồng đều thích nó. Thần chiến binh, Susano-O, có thể đánh
bại quái vật tám đầu Yamato-no-Orochi, sinh vật bắt cóc cô gái xinh đẹp Kushinada-Hime. Ông đã
đặt tám thùng sake, Yamato-no-Orochi đã uống hết và ngay lập tức bất tỉnh, cho nên Susano-O đã
đánh bại và cưới được Kushinada-Hime.

14
Thần đạo hay Thần giáo là tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Nhật Bản (biểu tượng cánh cổng).
29 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

ENKIDU VÀ GILGAMESH – TWO OF CUPS


Thần thoại Sumer15, Iraq | Enkidu and Gilgamesh – Iraq, Sumerian Mythology

Gilgamesh là nhà vua vĩ đại của Uruk. Sinh ra với hai phần ba
là thần và một phần ba là người, anh ta không có đối thủ về
sức mạnh hay sự sống. Năng lượng vô tận của anh ta khiến
anh trở thành kẻ thống trị áp bức vì anh ta không có đối thủ.
Anh ta luôn muốn sự chú ý, tiệc tùng và tình yêu một cách mà
không người bình thường nào có thể đuổi kịp. Mọi người trong
vương quốc của anh ta dần cảm thấy mệt mỏi và cầu xin thần
Anu giúp đỡ. Anu quyết định tạo ra người hoang dã Enkidu
đến đánh bại Gilgamesh. Khi mà Gilgamesh là tổng hợp đầy
đủ nhiều nền văn hoá và văn minh, Enkudy được tạo từ những
con quái vật không được thuần hoá.
Lần đầu tiên Gilgamesh gặp Enkidu, anh ấy cảm thấy sự cứng
đầu của con người này đang phát ra và thử thách hắn bằng một
trận đấu vật. Sử dụng kỹ năng thần thánh anh dễ dàng đưa hắn
lên tay trên, Gilgamesh ngạc nhiên bởi sức mạnh của Enkidu.
Cả hai ngang tài ngang sức, cả hai vật lộn nhiều ngày liền và
không một ai chiếm ưu thế. Cuối cùng Gilgamesh đã thắng
bằng một đồng bạc, nhưng anh rất ấn tượng về sức mạnh của
người hoang dã kia, và hai người trở thành bạn bè thân thiết.
Cả hai không bao giờ quan tâm đến sức mạnh của người kia.
Cả hai trở nên không thể tách rời, cùng nhau đi nhiều hành trình và cùng nhau đánh bại nhiều con
quái vật. Cho mãi đến khi Gilgamesh phạm sai lầm xúc phạm thần Ishtar, con gái của thần Anu. Ishtar
muốn báo thù, và nhờ thần Anu thả Bò trời để giết Gilgamesh. Mặc dù không mong đợi, Gilgamesh
buộc phải giết con bò. Anu tả thù anh ta, thay vì trực tiếp giết Gilgamesh, ông đã giết Enkidu – người
mà Gilgamesh yêu thương nhất.
Gilgamesh cảm thấy bị đau khổ, chìm đắm trong đau thương trước cái chết người mà anh yêu quý
nhất Enkidu và cũng sợ cái chết ập đến, anh quyết định đi tìm sự bất tử. Trong cuộc hành trình, anh
đối mặt với nhiều thử thách, hoạn nạn và những nhiệm vụ khi không có Enkidu đồng hành. Nhưng
anh không thể hoàn thành. Anh quay về Uruk và học cách chấp nhận cái chết.

15
Sumer là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà, bao gồm vùng đồng bằng
rộng lớn nằm giữa sông Tigris và Euphrates, phía đông nam giáp Vịnh Ba Tư.
30 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

APSARA – THREE OF CUPS


Thần thoại Hindu, Cam-pu-chia | Apsara16 – Cambodia, Hindu Mythology

Indra là vị thần quyền năng của sấm, chớp, bão, mưa, lũ và


chiến tranh. Ông ta cũng là vua của thiên đường và của Devas
và Devis, tính nam và tính nữ của thiên đàng. Ông ấy được
xuất hiện dưới tia sấm chớp Vajra17 ông sử dụng và voi trắng
ba đầu, Airavata, ông cưỡi. Ông còn biết đến với những bữa
tiệc truỵ lạc. Bao quanh ông là Gandharvas, linh hồn nam,
những nhạc công tuyệt vời, và những đối tác nữ, vũ công
Apsaras. Apsaras là những phụ nữ xinh đẹp và quyền năng
mang niềm vui trong bữa tiệc. Họ làm chủ vận may của những
trò chơi và cờ bạc; mỗi người đều là người bảo trợ cho một
khía cạnh riêng biệt của nghệ thuật biểu diễn; tất cả bọn họ
đều là những vũ công giỏi. Họ bay trên bầu trời mang thông
điệp riêng mình và họ quyến rũ đàn ông và các vị thần. Indra
thậm trí một lần cử Apsara Menaka đến quyến rũ hiền nhân
Vishwamitra để nhiễu loạn ông khi đang thiền và ngăn chặn
sức mạnh tăng thêm của ông. Apsaras thường kết hôn với các
nhạc công đồng hành với họ, các Gandharvas, trừ Mera.
Mera là nữ hoàng của Apsaras, và mặc cho những chị em kết
hôn với các nhạc công của Indra, cô lại không mấy hứng thú.
Cô cảm thấy căng thẳng và chán nản, cô cho rằng mình sẽ
không tìm thấy tình yêu đích thực ở thiên đàng. Cho nên cô đã hạ phàm và đến vùng đất Cambodia
xanh tươi. Cô lập tức để ý đến vua hiền nhân, Kambu Swayambhuva, người đã đến Cambodia từ Ấn
Độ xa xôi. Cô mê mẩn với sự tốt bụng, lòng dũng cảm, và nguồn gốc kỳ lạ của ông ấy, nên cô đã hạ
phàm và từ bỏ cuộc sống vương giả ở thiên đàng, thậm trí cả sự bất tử để đến với ông. Thần Shiva đã
ban ơn cho họ, và họ kết hôn, cùng tạo ra chế độ quân chủ Cambodia. Qua nhiều đời, cùng chung gây
dựng nên cộng đồng Khmer, cái tên kêt hợp từ tên của Kambu và Mera.

16
Apsara là một dạng tiên nữ trong Ấn Độ giáo và thần thoại Phật giáo. Tiếng Việt thường dịch là nữ thần hay tiên nữ.
Apsara được biết đến rộng rãi với cái tên Apsara trong tiếng Khmer, và còn được gọi là Accharā trong tiếng Pāli, hoặc
Bidadari, Biraddali, Hapsari / Apsari hoặc Widadari / Widyadari, Helloi và Apson.
17
Vajra (kim cương chử) (hay dorje trong tiếng Tây Tạng) là một vũ khí nghi lễ tượng trưng cho các đặc tính của kim
cương (không thể phá hủy) và sấm sét (lực bất khả kháng) và là từ tiếng Phạn có cả hai nghĩa.
31 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CHIM HOẠ MI – FOUR OF CUPS


Chuyện cổ tích Đan Mạch, Trung Quốc | The Nightingale – China, Danish Fairy Tale

Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua Trung Hoa sống ở một cung
điện tuyệt đẹp được bao quanh bởi những khu vườn xinh xắn.
Rất nhiều khách quan đến chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của lãnh
thổ ông ta, nhưng tất cả đều đồng ý rằng nơi đẹp nhất trong
vương quốc này không nằm phía bên trong bức tường mà nằm
ở khu rừng cạnh đó. Ở nơi đó có chú chim hoạ mi với tiếng
hót trong trẻo khiến những ai nghe thấy không thể không dừng
lại để lắng nghe, nhưng nhà vua lại không biết.
Nhà vua thấy rất ngạc nhiên khi biết về chú chim hoạ mi đó
trong một cuốn sách được tặng bởi nhà vua Nhật Bản. Nhà vua
liền triệu hồi cần thần và ra lệnh cho họ phải mang con chim
hoạ mi đó. Nhưng không một ai trong đám cận thần hay cận
vệ biết về loài chim đó. Cuối cùng, có một cô đầu bếp nơi mà
chú chim hoạ mi đậu. Cô chỉ đám cận thần vào một khu rừng
và họ tìm ra chú chim hoạ mi. Đám cận thận cầu xin con chim
hoạ mi quay về cùng chúng. Nó lịch sự đồng ý.
Tối hôm đó, chú chim nhỏ được diện kiến vua, chàng rất ngạc
nhiên với vẻ ngoài xám xịt. Nhưng khi nó cất tiếng hót, tất cả
cận thần đều bật khóc trước tiếng hót trong trẻo. Nó được nhốt
trong một chiếc lồng bằng vàng và trói bằng sợi dây xích bằng vàng, và mỗi ngày đều hót cho nhà
vua và tất cả cận thần của ông ta.
Cho đến một ngày, nhà vua nhận được quà của quốc vương Nhật Bản. Đó là những hộp nhạc cất tiếng
chim được làm bằng vàng và khảm ngọc, và đám cận thần thích chúng hơn là thích chú hoạ mi. Chú
hoạ mi biến mất, và nhà vua quấn lấy món đồ kia. Nhưng cuối cùng chú chim làm bằng vàng bị hỏng
và nhà vua sinh bệnh. Nằm một mình trên giường bệnh, nhà vua chờ thần Chết trong im lặng. Bỗng
nhiên, chú chim hoạ mi quay trở lại, cất tiếng hót ngọt ngào khiến nhà vua sống lại.
Nhà vua cảm tạ hoạ mi và cố bắt nó trong chiếc lồng vàng, như hoạ mi muốn được tự do bay lượn.
Kể từ đó nhà vua và chim hoạ mi là những người bạn thân thiết.
32 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

MẸ MA THAN KHÓC LA LLORONA – FIVE OF CUPS


Chuyện dân gian Mexico, Mexico | La Llorana – Mexico, Mexico Folklore

Có một cô gái trẻ tên Maria sống ở một ngôi làng nhỏ. Mặc
dù gia đình cô rất nghèo, nhưng cô rất xinh đẹp, và nhanh
chóng lọt vào mắt xanh của một người đàn ông vô cùng giàu
có. Ông ta đi qua làng của cô, khi phát hiện ra cô, liền thu hút
bởi vẻ quyến rũ, ngay lập tức cầu hôn cô. Cô cũng thích ông
ta. Bằng sự động viên từ gia đình, cô ấy đã lấy ông ta.
Nhưng gia đình của ông ta lại không ủng hộ, nên ông ta xây
một ngôi nhà trong một ngôi làng nhỏ mà ông có thể thường
xuyên tới thăm. Maria đã sinh cho ông hai người con vô cùng
đẹp trai, và họ cùng nhau sống rất hạnh phúc. Nhưng chồng
cô rất hay đi xa, ông dành càng ngày càng ít thời gian cho cô.
Cho đến khi ông bắt đầu không quan tâm tới Maria mà chỉ
quan tâm hai đứa con. Rồi cũng không thấy ông ta xuất hiện
nữa. Một lần tình cờ, cô phát hiện thấy ông ta đang cùng một
người phụ nữ xuất thân danh giá khác.
Quá mất kiềm chế, cô trút cơn giận lên hai đứa con. Cô mang
hai đứa ra một con sông và dìm chúng chết.
Khi cô hiểu việc mà mình vừa làm, cô ấy vô cùng đau khổ và
hối hận, trong sâu thẳm cô vẫn yêu thương chúng. Cô ấy cứ
đi tìm chúng, nhưng khi hai cái xác của chúng biến mất. Cô đầm mình xuống dòng sông tự tử.
Khi cô đến cánh cổng địa ngục, Maria từ chối bước vào khi không có con mình. Maria quay lại dương
gian, mắc kẹt giữa sự sống và cái chết, đi tìm những đứa con mình. Cho đến ngày nay, cô tiếp tục tìm
kiếm, bắt cóc những đứa trẻ lang thang trong đêm và nhấm chím chúng để thay thế cho đứa con mình.
Cô có thể nghe thấy tiếng khóc “Ay, mis hijos!” – “Ôi, các con tôi!” Đó là lí do tại sao cô được biết
đến là La Llorona, hay mẹ ma than khóc.
33 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BÀ CHÚA TUYẾT – SIX OF CUPS


Chuyện cổ tích Đan Mạch, Đan Mạch | The Snow Queen – Denmark, Danish Fairy Tale

Ngày xửa ngày xưa, có hai đứa trẻ, Greta và Kai, là hai người
bạn thân thiết của nhau. Chúng sống cạnh nhau và cùng trồng
hoa trên bục cửa sổ giữa nhà của chúng.
Vào một ngày, chiếc gương của ác quỷ vỡ thành trăm mảnh,
những mảnh vỡ nhỏ rơi xuống trái đất. Một mảnh vào mắt của
Kai, và cậu bắt đầu nhìn mọi thứ trở nên mù mờ. Một mảnh rơi
vào trái tim của cậu, khiến cậu trở nên thô lỗ. Cậu đập vỡ bục
hoa của cậu và Greta. Khi bà chúa tuyết mang mùa đông đến,
bà ta bị cuốn hút với vẻ đẹp và sự tàn nhẫn của cậu, và cậu đã
đi theo bà. Bà chúa tuyết hôn cậu hai lần, một nụ hôn làm cậu
miễn nhiễm với giá lạnh và một nụ hôn làm cậu quên Greta.
Khi Greta biết Kai đã bỏ đi, cô bé quyết định đi tìm cậu. Cô
hỏi bà cụ về đường đi nhưng bị mắc kẹt trong khu vườn của bà
mãi đến khi những đoá hồng giúp cô trốn đi. Sau đó, cô gặp
con quạ đã trông thấy Kai, nhưng người đó lại là hoàng tử
thông minh khác đã lấy một nàng công chúa xinh đẹp. Greta bị
một đám cướp bắt nhưng lại được nữ thủ lĩnh thả ra. Cuối cùng
cô bé cưỡi lên một chú tuần lộc đi về phương Bắc, nơi mà
người phụ nữ Sami nói rằng sự tinh khiết của cô sẽ đánh bại
được bà chúa tuyết.
Greta đến được lâu đài của bà, toà lâu đài được làm bằng băng và bao phủ bởi tuyết. Trong đó cô ấy
thấy Kai đang một mình trên một hồ băng bên cạnh ngai vàng của bà chúa tuyết. Greta ôm lấy thân
thể lạnh giá của Kai và bắt đầu khóc. Nước mắt của cô làm tan chảy mảnh gương trong trái tim Kai,
và khiến những cảm xúc của cậu quay trở về, cậu cũng khóc. Nước mắt làm mảnh gương trong mắt
của cậu tan chảy, và cậu thấy mọi thứ rõ ràng quay trở lại. Cậu nhớ ra Greta, và cả hai cùng nhảy múa
vui vẻ. Tay trong tay và họ cùng quay trở về nhà với chú tuần lộc, người phụ nữ Sami, và nữ thủ lĩnh.
34 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

ALADDIN – SEVEN OF CUPS


Chuyện dân gian Ả Rập, Iran | Aladdin – Persia, Arabic Folk Tale

Có một chàng trai trẻ tên là Aladdin, chàng ta rất nghèo và lười
biếng. Trong một ngày trốn làm, chàng ta gặp một người phù
thuỷ với vẻ ngoài huyền bí, người tự xưng mình là người anh
trai thất lạc của người bố đã mất của Aladdin. Thoạt đầu, chàng
ấy không tin, nhưng chàng đổi ý khi người đàn ông đưa cho
anh ta một khoản tiền bày tỏ thiện chí. Vì vậy, Aladdin đồng ý
theo “ông chú” ra khỏi thị trấn. Khi họ đến một nơi bí ẩn, gã
phù thuỷ niệm chú, và mỏm đá vội mở ra. Gã phù thuỷ đưa cho
Aladdin một chiếc nhẫn ma thuật để chỉ đường cho anh ta và
bảo anh ta lấy chiếc đèn từ trong đó nhưng không được động
vào bất kỳ vật khác nếu không sẽ chết. Aladdin lưỡng lự đồng
ý ngay sau khi gã phù thuỷ đẩy anh vào; khi anh ấy nhìn thấy
cây đèn, Aladdin đã từ chối đưa nó ra ngoài.
Gã phù thuỷ trở nên phẫn nộ, hắn nhốt anh ta trong đó và mặc
cho anh ấy đến chết.
Aladdin sớm nhận ra chiếc nhẫn và chiếc đèn ẩn chứa một vị
thần ban điều ước, và anh ấy sử dụng những điều ước để quay
về nhà và sống một cuộc sống xa hoa. Anh ta mua những món
đồ đắt tiền và dùng chúng để cầu hôn con gái của Sultan. Sultan
rất thích những mòn quà đắt tiền và chế ngự sự miễn cưỡng của ông Grand Vizier với Aladdin.
Cả hai cùng kết hôn, và Aladdin sử dụng phép thuật để xây nên một toà lâu đài tuyệt đẹp cho anh ấy
và vợ mình. Nhưng tất cả phép thuật đều bị gã phù thuỷ phát hiện, và gã ta nhận ra Aladdin đã trốn
khỏi cái hố đó. Cho nên gã phù thuỷ đã dùng mưu mẹo để lừa nàng công chúa vứt bỏ cái đèn, rồi sau
đó gã ta nhặt lấy và sử dụng nó để làm tan biến toà lâu đài, công chúa và sự giàu có. Aladdin phát
hiện mọi thứ biến mất, liền sử dụng thần nhẫn để đưa anh ấy đến toà lâu đài bị mất. Anh ta thuyết
phục vợ mình dụ dỗ gã phù thuỷ để lấy lại chiếc đền. Cô đã làm được, và cả hai cùng giết chết gã phù
thuỷ và biến mọi thứ lại như cũ.
35 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

MOSES – EIGHT OF CUPS


Huyền thoại Hebrew, Ai Cập | Moses18 – Egypt, Hebrew Legend

Rất lâu về trước, người Do thái là nô lệ ở Ai Cập, họ phải phục


vụ người Ai Cập. Pharaoh sợ rằng ông bị lật đổ, nên ông ra
lệnh tất cả cậu bé sinh ra trong thời gian đó đều bị giết.
Yocheved lo lắng cho con trai mình, Moses, nên cô gặt Moses
trong một chiếc nôi và thả cậu trôi sông. Chiếc nôi trôi vào
vòng tay con gái của Pharaoh, người sau này trực tiếp nuôi
nấng cậu. Cậu nhanh chóng trở thành một thiếu niên, Moses
nhận thức được dòng dõi đích thực của mình và đã giết tên
trùm nô lệ người ngược đãi người Do thái. Sau đó, cậu quyết
định rời bỏ chốn giàu sang và ẩn đến cuộc sống giản dị bên
bờ biển.
Ở Midian, Mosese gặp và cưới người phụ nữ Kenite
Zipporah. Họ sống hạnh phúc cho đến khi một vị thần nói với
Moses, anh sẽ băng qua một đám bụi cháy, quay lại Ai Cập,
giải phóng người Do thái, và mang họ đến vùng đất mới.
Moses lưỡng lự đồng ý.
Khi quay lại Ai Cập, Moses yêu cầu Pharaoh trả tự do cho
người Do thái, nhưng hắn từ chối, vị thần đã giáng xuống một
tai hoạ. Sông Nile bị ngập lụt, cá chết hết. Toàn đất nước bị
bao phủ bởi sương mù giả. Mọi người bị bao phủ bởi lớp bụi tạo từ những con chí, con ruồi, vật nuôi
bị chết và dịch bệnh. Mọi người trở nên sôi sục, và những hòn lửa từ trên trời rơi xuống. Cào cào ăn
hết mùa màng, thế giới trở nên đen tối trong vòng ba ngày. Tai hoạ cuối cùng, tất cả đứa bé nam Ai
Cập sinh ra đều chết, Nhưng những đứa bé nam Do thái sống sót bởi vì các gia đình được Moses cảnh
báo treo một ngọn đèn màu máu ngoài khung cửa.
Pharaoh đau đớn trước cái chết của con mình, ra lệnh Moses và người Do thái rời Ai Cập. Nhưng khi
Moses đến biển Đỏ, tạo con đường xuyên qua biển cho người Do thái, Pharaoh thay đổi ý định. Ông
truyền lệnh lính gác đuổi theo đám Israelite chạy trốn. Khi người Do thái cuối cùng rời khỏi con
đường xuyên biển, Moses đóng lại, nhấm chìm toàn bộ quân đội Ai Cập. Moses và người Do thái
được tự do.

18
Moses, trong tiếng Việt là Mô-sét hoặc Môi-se hoặc Môi-dơ hoặc Môi-xen, là lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật
pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy quân sự và sử gia. Ông cũng được xem là người chép kinh Torah. Trong tiếng Hebrew,
ông được gọi là Moshe Rabbeinu.
36 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

TÀJAL–MULÚK VÀ CÔNG CHÚA DUNYÀ – NINE OF CUPS


Chuyện dân gian Ả Rập, Iran | Tàjal-Mulúk and The Princess Dunyà – Iran, Arabic Folk Tale

Hoàng tử Tàjal-Mulúk, con trai của vua Sulayman, Shah của


Green Land và những ngọn núi Isfahan, đã mười tám tuổi. Khi
anh gặp thương nhân từ phương xa tên Aziz. Ông đã cho Tàjal-
Mulúk xem rất nhiều đồ gốm của mình, nhưng món đồ đẹp
nhất là miếng vải lanh có hình những con linh dương bay lượn
duyên dáng. Ông tiếp túc nói với hoàng tử chúng được làm
bằng đôi tay của cô chúa xinh đẹp thông tinh Dunyà của hòn
đảo Camphor. Mặc dù chưa gặp cô, Tàjal-Mulúk đã mê đắm
cô công chúa cho nên đã bảo cha mình gửi một phái đoàn xin
đến kết hôn với cô. Nhưng nàng lại là một người căm hận đàn
ông và sẽ doạ giết bất cứ ai nếu cô bị ép buộc phải lấy.
Không nản lòng, Tàjal-Mulúk, và cố vấn của anh Vizier19, và
Aziz lẻn vào Đảo Camphor trong bộ dạng của những thương
nhân và mở một cửa hàng bán vải trong chợ. Sau đó, một bà
cụ đến cửa hàng mua vải cho công chúa Dunyà. Tàjal-Mulúk
đưa bà tấm vải như món quà và đưa bà một lá thư để chuyển
đến công chúa Dunyà. Bằng cách đó, Tàjal-Mulúk và Dunyà
trao đổi thư với nhau. Tàjal-Mulúk càng cảm thấy yêu nàng
hơn, và nàng cũng bắt đầu nảy sinh tình cảm, nhưng nàng nhất
quyết không thay đổi ý định về chuyện kết hôn. Bà cụ nói với
Tàjal-Mulúk có một lần công chúa mơ thấy một con chim bồ câu cái bị bắt trên tổ và con đực đã
không đến cứu nó. Nên nàng không còn niềm tin vào đàn ông.
Tàjal-Mulúk dùng trí tuệ và tài năng vẽ tranh trong khu vườn mà cô thường xuyên ghé qua. Bức tranh
miêu tả con bồ câu cái bị bẫy trong tổ và con đực mang theo móng của con diều. Khi Dunyà nhìn
thấy bức tranh, cô hiểu rằng mình đã hiểu sai giấc mơ của cô. Khi hoàng tử Tàjal-Mulúk diện kiến,
cô mê đắm chàng. Họ chìm đắm trong tình yêu, và Tàjal-Mulúk tiếp tục cải trang trong khu của phụ
nữ, hoá thành một cô gái trẻ trong nhiều tháng. Cố vấn của anh, không hiểu chuyện gì đã xảy ra với
Tàjal-Mulúk, yêu cầu nhà vua và binh lính đến giải cứu cho anh. Khi nhà vua đến, sự thật của hoàng
tử hé mở, và hôn lễ được tổ chức long trọng.

19
Wazir, có khi còn dịch là vizia, là một vị cố vấn chính trị cấp cao hoặc bộ trưởng trong nội các. Danh hiệu này do các
caliph nhà Abbas phong cho những vị katib, vốn dĩ ban đầu chỉ là các trợ lý nhưng về sau trở thành người đại diện và kế
thừa các dapir làm việc cho các vị vua Sasan.
37 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

ĐỨA CON CỦA BIỂN JULNAR – TEN OF CUPS


Chuyện dân gian Ả Rập, Iran | Julnar The Sea-Born – Persia, Arabic Tale

Có một vị vua của vùng đất Ajam, Shahrimán. Ông có hàng


trăm người vợ, người sau còn đẹp hơn người trước, nhưng
không ai có thể sinh cho hắn một người con. Shahrimán cảm
thấy tuyệt vọng và lo lắng về người thừa kế của mình. Vào lúc
đó, một thương lái đi qua vương quốc của họ, đi cùng hắn là
một cô gái vô cùng xinh đẹp. Nàng vô cùng hoàn hảo, và nhà
vua hỏi giá của cô, nhưng ông nhận ra cô ấy chỉ là một người
nô lệ. Người thương lái mua cô bằng một ít tiền, nhưng sự giam
giữ cô trong ba năm quả thực là quá đáng. Vì thế, hắn định tặng
nhà vua với mong muốn cô có một mái nhà tốt.
Nhà vua Shahrimán chấp nhận món quà của thương nhân và
tặng hắn một cái áo choàng và rất nhiều tiền hơn những gì hắn
mong muốn. Trong một năm, nhà vua chìm đắm với người phụ
nữ xinh đẹp và bí ẩn. Ông tặng cô rất nhiều quà, cho nàng ăn
đồ ăn thịnh soạn, cho cô nghe nhạc, nhưng cô vẫn không nói
nửa lời. Sau cùng nhà vua nói với cô rằng, nếu nàng có thể sinh
cho ông một đứa con, ông sẽ phong cho cô thành nữ hoàng. Cô
mỉm cười và nói rằng mình đã có thai rồi. Nhà vua vô cùng vui
mừng vì người phụ nữ mà ông hết mực yêu mến đã nói chuyện
với ông, và ông cũng sắp trở thành cha.
Shahrimán hỏi vì sao cô không nói, cô kể về câu chuyện của mình. Cô tên là Junar, công chúa của
biển cả, vì bất đồng với anh trai cô nên cô đã lên đất liền. Cô gặp một người đàn ông vô lại và định
giết hắn. Nhưng cô lại gặp người thương lái kia, người vô cùng tốt bụng và đức hạnh, và hắn đã mang
cô đến ông. Julnar nói với Shahrimán nếu ông không đối xử tốt với cô, cô sẽ quay về biển.
Sau cùng, cô sẽ hoà giải với gia đình cô, và họ sẽ giúp cô sinh ra hoàng tử Badar Basim. Nữ hoàng
Julnar đội vương miện và sống hạnh phúc với vua Shahrimán và cùng con trai của họ, cô cũng thường
xuyên thăm gia đình biển cả của mình.
38 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BAKUNAWA VÀ BẢY MẶT TRĂNG – PAGE OF CUPS


Thần thoại Philipines, Philipines | Bakunawa and The Seven Moons – Philipines, Filipino Mythology

Vũ trụ có bảy hành tinh, tầng thấp nhất trống rỗng và bao la.
Tầng thứ hai tên Tubignon, và nó chứa đầy nước và nước
thánh ở tận phần đáy đại dương. Tầng thứ ba tên Idalmunon
và chứa tầng ngầm tối tăm và thần thánh ở đó. Tầng thứ tư là
Lupan-on, và nó ở tầng giữa, loài người sống cùng các linh
hồn, nguyên nhân dẫn đến ốm đau. Tầng thứ năm tên
Kahanginan, đó là lớp không khí bên trên con người và được
lấp đầy bởi không khí thánh thần. Tầng thứ sáu tên Ibabaw-
non, nơi mà Babaylan, hay các thầy cúng, hiện ra để giao tiếp
với các thánh thần nửa người. Tầng thứ bảy nên Langit-non,
đó là nơi tạo ra Maka-ako lưu trú.
Thưở sơ khai, ban đêm vô cùng dài và tối tăm, kể cả trên
Langit-non. Maka-ako quyết dịnh tạo ra ánh sáng bằng bảy
mặt trăng, mặt trăng sau sáng hơn so với cái trước. Bảy mặt
trăng xinh đẹp thắp sáng trời đêm và làm mọi người yêu thích,
kể cả rắn biển Bakunawa.
Bakunawa sống ở sâu thẳm đại dương tăm tối, và thèm muốn
mặt trăng. Khi sự thèm muốn quá lớn, Bakunawa ra khỏi mặt
biển và nuốt chửng một mặt trăng. Trong thời gian đó,
Bakunawa nghỉ ngơi dưới những con sông, thoải mái tận hưởng mặt trăng bên trong nó. Nhưng sau
cùng mặt trăng đó tan chảy, Bakunawa lại thèm muốn một lần nữa. Con rắn lại chồi lên và nuốt chửng
mặt trăng này đên mặt trăng khác, không hề muốn dừng lại.
Trong một số truyện khác, Bakunawa nuốt tất cả kỳ trăng cuối và chỉ nhả ra trong sự sợ hãi khi người
Lupan-on đánh trống và hô vang tên con rắn. Trong vài truyện khác, mặt trăng cuối cùng ở trên bầu
trời trong khi nó được thoả mãn tại Lupan-on. Nhờ vào sự giúp đỡ của Tu’er Shen, thần Thỏ Trung
Hoa, ngài cột dây chỉ nhỏ màu đỏ giữa hai người yêu nhau.
39 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

THỢ SĂN HALIBU – KNIGHT OF CUPS


Huyền thoại Mông Cổ, Mông Cổ | Halibu The Hunter – Mongolia, Mongolian Legend

Trên thảo nguyên Mông Cổ, có một thợ săn tên Halibu. Chàng
ta có kỹ năng điêu luyện, chàng cũng có trái tim nhân hậu, sẵn
sàng chia sẻ thịt cho tất cả mọi người. Bởi vậy, chàng ấy được
đông đảo mọi người kính trọng.
Trong một lần đi săn, chàng nghe thấy tiếng động lạ và nhìn
thấy một sinh vật nhỏ trong mỏ của con chim hung dữ. Chàng
dùng cung bắn con chim rơi xuống, nhưng ngạc nhiên thay khi
thấy một con rắn nhỏ thoát khỏi miệng con chim, và chàng
càng ngạc nhiên khi thấy sinh vật đó cảm ơn mình đã cứu mạng
nó. Nó nhận mình là con gái của vua Rồng, và nếu chàng theo
cô ấy về thì vua cha sẽ tặng Halibu nhiều của cải. Nàng khuyên
chàng hãy hỏi về hòn đá trong miệng đức vua, đó là còn đá ma
thuật cho phép Halibu hiểu được ngôn ngữ của động vật.
Nàng công chúa đưa Halibu đến gặp vua cha, và vua Rồng cảm
thấy vui sướng khi thấy con gái mình vẫn an toàn và tặng
Halibu rất nhiều của cải. Nhưng chàng thợ săn không cần
những thứ đó, mà chàng cầng hòn đá ma thuật để hiểu được
ngôn ngữ của động vật. Nhà vua lấy làm ngạc nhiên nhưng
đồng ý với điều kiện chàng không được kể cho ai về sức mạnh
đó, nếu không chàng sẽ biến thành hòn đá mãi mãi.
Khi hòn đá trong miệng chàng trai, Halibu quay về nhà. Một ngày nọ, chàng nghe thấy bầy chim nói
về thảm hoạ sắp xảy đến. Chàng đoán rằng ngọn núi sẽ sụp xuống và đồng bằng sẽ bị lũ cuốn đi mọi
người, kể cả gia đình Halibu vào buổi tối.
Halibu chạy nhanh về nhà và cảnh báo mọi người, nhưng không một ai tin vì không có chuyện như
chàng nói. Họ nói di chuyển là vô cùng khó khăn và cần bằng chứng. Anh ấy lưỡng lự nói với mọi
người về vua Rồng, hòn đá ma thuật, và câu chuyện của những chú chim. Ngay lập tức, chàng biến
thành hòn đá bất động.
Mọi người choáng váng và tin những gì chàng nói, nhanh chóng gói ghém đồ đạc. Họ chạy thật nhanh
trước khi ngọn núi sập và mọi thứ nhấm chìm trong nước lũ. Cho đến ngày nay, bức tượng Halibu
được xây ra để tỏ lòng biết ơn với chàng.
40 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

YEMOJA – QUEEN OF CUPS


Thần linh Yoruba, Nigeria | Yemoja – Nigeria, Yoruba Deity

Yemoja là Orisha20 người Yoruba, hay thần linh của những


con sông hay bề mặt đại dương. Xuất phát từ việc thờ cúng
ban đầu tại Negeria như một phần của dân tộc thuần chủng
châu Phi, vị thần cũng được tôn thờ tại châu Mỹ như Cuba,
Brazil, và Uruguay, tất cả đều có nhiều câu chuyện về sức
mạnh khác nhau về bà ấy.
Yemoja xuất hiện tại thời điểm khởi đầu của tạo hoá, và tất cả
sự sống và Orishas đều bắt nguồn từ nguồn nước của bà ấy.
Ban đầu, bà ấy kết hôn với Oko, một Orisha ruộng đồng.
Nhưng bà ấy không hạnh phúc và rời bỏ ông ta để sống trong
biển cả nơi mà Orisha Olokun chỉ bà ấy con đường đến với
đại dương. Bà ấy trở thành chủ của những dòng sông và mặt
nước, những phần có nhiều sự sống, và tên là Yeye omo eja,
hay “mẹ của những loài cá”, cho con cháu bất cần của bà ấy.
Olokun, cai quản đại dương sâu thẳm, và chỉ có Yemoja là có
thể xoa dịu cơn thịnh nộ của hắn khi hắn trút nó vào những
cơn bão và cơn sóng dữ.
Một lần, Yejoma quay trở lại mặt nước để tìm một người
chồng mới và những đứa con. Bà ấy đã kết hôn với Obatala,
Orula, Babalu, Aye, Orisha, và trong vài câu truyện, Oyun. Bà ấy sau đó lấy Orisha Aganyu, và họ
có người con trai tên Orugan. Nhưng buồn thay, Orugan khao khát Yejoma và cố gắng chiếm đoạt
mẹ mình. Bà từ chối, thay vào đó nguồn nước của bà vỡ ra và tràn ngập khắp thế giới khi sinh mười
bốn Orishas và con người. Sau đó, bà quay trở về đại dương và rất ít người còn trông thấy bà ấy.
Mặc dù ít xuất hiện, Yemoja vẫn quan tâm sâu sắc đến những người thờ phụng, đặc biệt phụ nữ và
trẻ con. Bà ta cai quản sự mang thai, sinh nở, vô sinh, sự an toàn của con cái, tình yêu, và sự chữa
lành. Bà trông nom những bí mật, sự khôn ngoan, mặt trăng, và tiềm thức. Biểu tượng gắn liền với
bà ấy là vỏ ốc và màu xanh dương. Bà ấy thường tốt bụng với những linh hồn chết chìm trong làn
nước của bà, kể cả những người đã bị trôi dạt ra xa nhà của họ.

20
Orishas là các vị thần của Santeria (là một tôn giáo thiên chúa của người châu Phi phát triển ở Cuba giữa thế kỷ 16 và
19. Nó nảy sinh thông qua một quá trình đồng nhất giữa tôn giáo Yoruba truyền thống của Tây Phi và hình thức Cơ đốc
giáo của Công giáo La Mã), những sinh vật mà các tín đồ tương tác thường xuyên. Mỗi orisha có cá tính riêng biệt và có
nhiều điểm mạnh, điểm yếu và sở thích. Bằng nhiều cách, do đó, hiểu một orisha giống như hiểu một con người khác.
41 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CẬU BÉ VÀ VIÊN NGỌC RỒNG – KING OF CUPS


Huyền thoại Trung Quốc, Trung Quốc | The Boy and The Dragon Pearl – China, Chinese Legend

Loài rồng ở Trung Quốc rất quyền lực. Nó là biểu tượng cho
sức mạnh, sự huyền bí và may mắn. Chúng có thể biến mình
nhỏ như con tằm hay to như vũ trự. Chúng có thể sống trên
trời hoặc sâu thẳm trong đại dương và điều khiển bão, thuỷ
triều, lũ và mưa. Chúng có thể di chuyển quãng đường rất xa,
và một số loài biết đến ủng hộ những người đàn ông trong
khóa tu trên núi. Chúng mang một viên ngọc ẩn chứa sức
mạnh ma thuật. Rồng vô cùng tráng lệ, nên người Trung Quốc
có câu “hy vọng con trai ta sẽ hoá rồng.”
Có một cậu bé sống ở ngôi làng nhỏ thiếu ăn vì hạn hán nhiều
năm liền. Không có gì có thể mọc được, và kể cả những loài
động vật cũng vậy. Khi chàng trai thấy một chú thỏ to béo,
cậu ta theo nó đến tổ của mình. Cậu thấy một mảng xanh lục
nhỏ đang phát sáng, khi chàng đào nó lên chàng thấy một viên
ngọc lớn. Cậu nghĩ rằng mình có thể bán lấy thức ăn, cậu và
mẹ mình đặt nó trong cái hũ gạo rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, họ
thấy hũ gạo tràn ra rất nhiều gạo. Điều kỳ diệu cũng xảy đến
tương tự với hũ dầu, và cả hộp tiền. Cậu và mẹ mình nhận
thấy sức mạnh của viên ngọc và không còn lo đến đồ ăn nữa.
Nhưng sự giàu có của cậu đến tai một người đàn ông keo kiệt,
hắn đập vỡ nhà của cậu để tìm bất cứ cái gì mà họ có.
Cậu bé vô cùng hoảng sợ, và chàng nuốt lấy viên ngọc. Chàng bỗng cảm thấy vô cùng khát nước, và
lập tức uống hết một bình nước, sau đó lao mình xuống dòng sông. Chàng biến thành một con rồng
khổng lồ, uốn lượn chiếc đuôi sau và trước, và doạ người đàn ông bỏ chạy. Con rồng nhìn người mẹ
mình và bà ấy nhìn người con biến thành rồng của mình, và họ đều nhận ra cậu bé không thể biến về
như cũ. Bởi thế, cậu bảo vệ con sông, và mẹ cậu vẫn thường xuyên qua thăm cậu bé.
42 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

JACK VÀ CÂY ĐẬU THẦN – ACE OF COINS


Chuyện cổ tích Anh, Anh | Jack and Beanstalk – England, English Fairy Tale

Có một chàng trai nghèo tên là Jack, chàng sống cùng mẹ và


một con bò sữa. Khi con bò trở nên quá già và không thể tiếp
tục làm ra sữa nữa. Mặc dù nó là tài sản duy nhất của gia đình
cậu, nhưng họ không còn gì để ăn, đành phải bán lấy con bò.
Jack lưỡng lự mang con bò ra chợ bán. Trên đường ra chợ,
chàng gặp một người bán đậu, người đề nghị chàng bán con
bò để đổi lại một hạt đậu thần.
Sau một hồi thuyết phục hạt đậu này rất có giá trị và cũng quá
lười để xuống thị trấn, chàng đồng ý và quay trở về nhà. Tuy
nhiên, mẹ chàng đã nổi giận. Trong sự tức giận, bà quăng hạt
đậu ra ngoài cửa sổ và khóc nức nở cả đêm. Sáng hôm sau, gia
đình cậu nhận ra hạt đậu kia đã mọc thành một cây đậu khổng
lồ, chạm lấy bầu trời và xuyên qua những đám mây. Chàng
Jack tò mò trèo lên cây đậu. Trên đỉnh, chàng thấy một lâu đài
nguy nga rộng lớn của một người khổng lồ. Chàng lẻn vào, và
với sự giúp đỡ của người bạn khổng lồ, chàng đã tránh được
sự chú ý của một con quỷ to lớn khát máu.
Khi con quỷ đó đang ngủ, Jack đã ăn trộm một tài tiền, và con
ngỗng đẻ trứng vàng, và một bộ đàn có thể tự phát ra tiếng.
Nhưng thật không may, bộ đàn không muốn bị ăn trộm, nó liền phát ra âm thanh rất lớn đánh thức
con quỷ dậy. Con quỷ gầm lên và phát hiện chuyện gì đang diễn ra và đuổi theo Jack xuống dưới
chân cây đậu. Jack nhanh chóng trượt xuống, khi chạn được đến chân cây con quỷ mới bắt đầu đi
xuống. Chàng liền lấy một chiếc rìu và nhanh chóng chặt cây đậu. Cây đậu liền đổ làm cho con quỷ
bị đè chết.
Từ hôm đó, Jack và mẹ mình sống hạnh phúc với tải đầy tiền, con ngỗng đẻ trứng vàng và âm thanh
tuyệt vời của bộ đàn ma thuật.
43 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

RHPISUNT – TWO OF COINS


Thần thoại Haida, Tây Bắc Thái Bình Dương | Rhpisunt – Pacific Northwest, Haida Mythology

Rất lâu về trước, Rhpisunt, cô con gái xinh đẹp của tộc trưởng.
Một ngày nọ, cô đi vào rừng để hái quả và bất ngờ bị rơi vào
một đống phân gấu. Cô cảm thấy khó chịu và to mồm nguyền
rủa lũ gấu, bảo chúng bẩn thỉu và ghê tởm. Người phụ nữ đi
cùng cô van nài cô bé miệng lại chút, nhưng Rhpisunt không
dịu lại, và họ nhanh chóng bỏ mặc cô. Thật không may, hai con
gấu xuất hiện ngay cạnh. Chúng nghe thấy lời xúc phạm của
Rhpisunt và muốn trừng phạt cô. Một trong hai con biến thành
một anh chàng đẹp trai, quyến rũ cô. Anh dụ dỗ cô đến nhà của
anh trên núi. Giữa làng gấu, cô yêu anh và muốn sống với anh.
Hai người kết hôn và có một cặp sinh đôi. Hai đứa trẻ đầy đặn
và khoẻ mạnh, và có khả năng biến đổi giữa người và gấu.
Nhưng mọi thứ không suôn sẻ. Kể từ khi Rhpisunt biến mất,
những người anh cô tìm kiếm không biết mệt mỏi. Họ điều tra
bằng dấu chân cô bên cạnh dấu chân gấu. Họ cảm thấy sợ hãi
và giận dữ, họ quyết định đi săn gấu.
Được dẫn bởi chú chó của Rhpisunt, những người anh phải tìm
được chồng gấu của Rhpisunt. Chế ngự được chồng gấu, họ
giáng vào chàng một đòn chí mạng. Bằng chút sức mạnh cuối
cùng, chồng gấu truyền sức mạnh ma thuật cho vợ mình để cô truyền lại cho con họ. Sau đó, anh em
Rhpisunt quay về làng, họ sống đến khi hai đứa bé trưởng thành.
Mặc dù cặp anh em sinh đôi là những thợ săn và chiến binh tôn kính, nhưng chúng cảm thấy không
thoải mái khi sống cùng con người. Cho nên khi mẹ chúng chết vì tuổi già, chúng biến thành gấu và
quay trở về khu rừng trên núi, không ai trông thấy chúng nữa.
44 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BANJHAKRI VÀ BANJHAKRINI – THREE OF COINS


Thần thoại Tamang, Nepal | Banjhakri and Banjhakrini – Nepal, Tamang21 Mythology

Trên ngọn núi Nepal, có câu chuyện về Banjhakri và người vợ


kinh hoàng của nó, Banjhakrini. Banjhakri gần giống như người
tuyết (Yeti22) nhưng nhỏ và thông minh hơn. Nó sinh ra từ mặt
trời, để bảo vệ khu rừng, thịt và xương của nó có thể chữa nhiều
bệnh tật và làm lành vết thương. Nhưng quan trọng nhất, nó là
một thầy cúng, và có nhiều câu chuyện kể về cách nó dạy một
thầy cúng mới.
Banjhakri luôn luôn chú ý đến người mới bắt đầu trở thành một
thấy cúng vĩ đại, nhưng nó luôn tỉ mỉ về sự lựa chọn của mình.
Chúng phải là những đứa trẻ, những đứa trẻ không có sẹo hay
một khiếm khuyết nào trên cơ thể. Nếu nó tìm được, nó sẽ bắt
cóc chúng, mang chúng đến một cái động và huấn luyện và
kiểm tra một cách nghiêm ngặt. Những đứa trẻ bắt phải ăn sâu
bọ bằng mặt sau lòng bàn tay, hay nhúng tay vào dầu nóng, hay
thực hiện những nhiệm vụ khó. Những đứa trẻ không thể vượt
qua sẽ bị để lại cho Banjhakrini khát máu và lưỡi liềm của ả.
Một vài đứa trẻ trở về với vết bầm và vết đánh, một số không
thấy quay trở lại nữa. Những đứa trẻ kiên định và vượt qua bài
kiểm tra sẽ được đền đáp. Vài năm sau chúng quay trở về và
hoàn toàn được trang bị kỹ năng của thầy cúng (hay jhakri).
Chúng có thể chơi trống Dhyangro linh thiêng, trò chuyện với các linh hồn, và chữa bệnh. Jhakri thực
hiện các nghi lễ mùa gặt, đám cưới, và đám ma, hát và múa và đánh trống Dhyangro. Những linh hồn
của thành viên trong gia đình đã chết có thể thông qua Jhakri để giao tiếp với các thành viên còn lại
trong gia đình trong khoảng thời gian ngắn.
Những đứa trẻ trở thành Jhakri có thể truyền kiến thức cho đệ tử, nhưng sức mạnh của họ không thể
bằng sự huấn luyện của Banjhakri.

21
Người Tamang là một dân tộc thiểu số ở Nepal. Họ nói tiếng Tamang (gốc Tây Tạng - Miến Điện). Tamang, tiếng Tạng
là Tamag, nghĩa là chiến binh cưỡi ngựa. Họ nguyên là những lính canh gác biên giới gốc Tây Tạng do vua Tây Tạng
"Trisong" sai đi vào khoảng năm 755. Người Tamang là những hướng dẫn viên leo núi và đi bộ xa giỏi. Trước đây nhiều
người Tamang được tuyển mộ vào trung đoàn Gurkha khi người Anh cai trị Ấn Độ.
22
Người tuyết là một sinh vật bí ẩn giống vượn cao hơn người trung bình và được cho rằng sống ở khu vực dãy Himalaya
của Nepal và Tây Tạng. Tên Yeti và Meh-Teh thường được dùng bởi người bản địa, và là một phần lịch sử thần thoại của
họ. Câu truyện về Yeti được truyền bá đến phương Tây vào thế kỷ 19.
45 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

VỢ CỦA CHIM ĐIÊU – FOUR OF COINS


Chuyện cổ tích Aymara, Peru | Condor’s Wife – Peru, Aymara Folk Tale

Thời điểm khởi nguyên của thế giới, chim Điêu đang bay gần
hồ Titicaca khi anh phát hiện một người phụ nữ trẻ đẹp đang
cưỡi trên lạc đà và hái quả mọng. Nó đậu lại gần và trò chuyện
với cô ấy, giúp cô ấy lượm quả. Cô gái ngọt ngào làm chim
Điêu phải lòng, và nó đề nghị cô ấy sống cùng. Nghe những lời
đường mật, nhưng cô ấy nói mình phải sống cùng người mẹ già
chỉ có một mình, và phải có người chăm sóc lạc đà. Chim Điêu
buồn bã nhưng hiểu cho hoàn cảnh của cô. Nó muốn nếu có thể
mong cô cho nó một ân huệ nhỏ là gãi vai chỗ mà chim Điêu
không thể chạm tới được. Cô gái làm vậy, chưa kịp biết chuyện
gì xảy ra, cô gái đã trên lưng chim Điêu và bay đi mất.
Nó bay cao bay xa đến nhà của nó trên bầu trời. Nó giới thiệu
gia đình mình cho cô gái. Mọi thành viên đều rất tốt bụng với
cô ấy, đặc biệt mẹ của chim Điêu. Mặc dù họ rất tử tế, họ cho
cô ấy ăn thức ăn của kền kền, thịt thối rữa. Cô gái khóc liên
tục, làm phiền muộn chim Điêu, người duy nhất muốn vợ mình
hạnh phúc. Tiếng khóc của cô ấy đến tai chim Ruồi, người biết
rõ chuyện gì xảy ra.
Chim Ruồi nhanh trí bảo chim Điêu rằng vợ anh chỉ thích ăn
thịt đã được nấu chín, và anh ấy đã nhìn thấy thịt lạc đà nướng trong ngôi làng phía bên kia sườn núi.
Chim Điêu xà xuống lấy đồ ăn cho vợ mình thưởng thức. Chim Ruồi nắm lấy cơ hội giúp cô gái trèo
khỏi tổ chim Điêu để quay về nhà, nơi mà người mẹ đang ngóng mong tin cô.
Chim Điêu bực bổi khi nó quay về và phát hiện cô gái đã bỏ trốn. Nó nhanh tìm thấy chim Ruồi và
xé nó ra làm nhiều mảnh. Nhưng thay vì chết mỗi mảnh lại biến thành một con chim ruồi nhỏ hơn,
và đó là lý do tại sao có rất nhiều loài chim ruồi trên thế giới.
46 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÔ BÉ BÁN DIÊM – FIVE OF COINS


Chuyện cổ tích Đan Mạch, Đan Mạch | The Little Match Girl – Danmark, Danish Fairy Tale

Có một cô bé nghèo với đôi chân trần đi bán diêm trên phố để
kiếm sống. Trong ngày lễ năm mới, không một ai cần mua
diêm, và không ai qua mua ủng hộ cô. Tuyết bắt đầu rơi, cô bé
sợ về nhà sẽ bị ăn đòn bởi người cha tàn độc của mình. Nên cô
tìm một góc nhỏ và khép mình lại. Trời tối dần, thời tiết trở nên
lạnh hơn, và cô không thể cảm thấy bàn tay mình được nữa.
Hết hy vọng và chỉ muốn một chút thoải mái, cô bé lấy que
diêm thứ nhất và đốt nó lên. Khi mẩu diêm nhỏ cháy lên, ngón
tay cô cảm thấy ấm áp như hơi ấm từ chiếc lò sưởi – mà cô đã
mường tượng được từng chi tiết bằng đồng của nó. Nhưng khi
que diêm vụt tắt, giấc mộng cũng vụt tắt theo, cô bé một lần
nữa cảm thấy lạnh giá và sợ hãi. Nên cô đã thắp que diêm thứ
hai, lần này cô thấy một bữa tiệc thịnh soạn với ngỗng nướng
và bánh táo. Một lần nữa giấc mộng vụt tắt theo que diêm. Que
diêm thứ ba hiện ra một cây thông Giáng sinh tráng lệ với tất
cả đồ trang trí cho đến khi nó dập tắt, để lại một vì sao bay
ngang qua.
Cô bé nhìn thấy sao băng và người bà hết mực yêu thương, tốt
bụng với cô, nói rằng sao băng là có ai đó sẽ chết. Cô thắp que
diêm thứ tư và thấy người bà trước mặt mình. Cô sợ rằng, như những que trước, người bà sẽ biến mất
khi que diêm dập tắt. Nên cô đã đốt tất cả que diêm hiện có. Trong ánh sáng chói lọi, bà của cô mỉm
cười và cầm tay cô bé. Họ cùng nhau bay lên bầu trời, nơi không còn lạnh lẽo, đói khát hay lo lắng.
Sáng hôm sau, người ta thấy cô bé đã chết và chôn vùi trong đống tuyết lạnh giá. Nhưng không một
ai để ý thấy nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc của cô.
47 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BÀ CỤ TỐT BỤNG VỚI CÔN TRÙNG – SIX OF COINS


Truyện ngụ ngôn người Inuit, Alsaka | The Woman Who Was Kind to Insects – Alaska, Inuit Fable

Năm nọ, khi mùa đông đến, một người bà cụ bị bỏ lại đằng sau
trong khu cắm trại bộ lạc của bà. Bà chỉ còn ít răng để ăn, bà
không thể dệt vải để bán nữa, và bà di chuyển chậm chạp để
săn bắn hay hái lượm. Đoàn người còn lại vẫn tiến bước, họ để
bà lại đằng sau với một hũ đựng côn trùng.
Bà cụ nhìn đám côn trùng và nghĩ bà cũng chẳng sống được
bao lâu, mà đám côn trùng tội nghiệp vẫn còn tràn đầy sức
sống, và chúng vẫn có thể sinh sôi nảy nở như bà trước kia.
Nên bà quyết định thả lũ côn trùng ra.
Đám côn trùng bay đi, bò và chạy thật xa khỏi bà cụ, nhưng
chúng không hề quên ơn của bà. Chúng gửi một con cáo con
đến trại của bà cụ. Sau khi đánh hơi thấy bà, con cáo nhảy lên
bà và cắn bà một cách rất lạ, bà cứ nghĩ mình sắp chết, nhưng
bà cụ nhận ra con cáo chỉ cắn vào phần viền của da bà. Nó tạo
thành đường chạy dọc cơ thể bà. Con cáo cứ cắn cho đến khi
bà cụ lột được lớp da như thay lớp áo choàng ngoài. Thoát khỏi
lớp da nhăn nheo, lớp da mới của bà rất tươi trẻ và mịn màng,
như một thiếu nữ. Bà chạy ra bờ sông và nhìn hình ảnh của
mình dưới mặt nước, thì ra bà đã trẻ trở lại,
Những chú côn trùng mà bà thả tự do tập hợp lại và cảm ơn vì đã cứu mạng chúng. Bà cũng cảm ơn
chúng vì đã cho mình một cuộc sống khác. Bởi vậy bà theo đến tổ của chúng, kết hôn với vua Đom
đóm, người đã rất tốt với bà.
48 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

NANAHUATZIN – SEVEN OF COINS


Thần thoại Aztec23, Mexico | Nanahuatzin24 – Mexico, Mythology

Ngày xưa, vạn vật sống trong tối tăm, cho nên những vị thần
cần ai đó trở thành mặt trời để thắp sáng trái đất. Mặt trời đầu
tiên là Tezcatlipoca, nhưng ánh sáng rất yếu, Vì thế các vị thần
khác đã đuổi hắn đi. Sau đó Quetzalcoatl trở thành mặt trời,
nhưng ông ta tính khí nóng nảy và phá huỷ thế giới trong trận
cuồng phong. Mặt trời thứ ba là Tlaloc, nhưng vợ ông ta lại bị
một vị thần khác dụ dỗ, cho nên ông ta nổi giận và phá huỷ mọi
thứ bằng ngọn lửa. Mặt trời thứ tư là Chalchiuhtlicue, vì bị
ngược đãi nên bà đã khóc rất nhiều, nhấn chìm cả thế giới trong
ngập lụt.
Khi chọn mặt trời thứ năm, các vị thần quyết định cách duy
nhất để tạo ra mặt trời đủ mạnh là cần ai đó hiến tế chính mình
trong lửa. Họ dã chọn Tecciztecatl xinh đẹp, giàu có và khoẻ
mạnh trở thành mặt trời. Họ chọn Nanahuatzin xấu xí, nghèo
khổ và yếu ớt thành mặt trăng. Tecciztecatl tự hào vì sự hi sinh
của mình như một cách lan toả danh tiếng, và anh ta mang theo
san hô và những vật phẩm đắt tiền. Nanahuatzin khiêm tốn coi
sự hi sinh như một trách nhiệm, và anh ấy mang theo máu và
sự khổ hạnh của mình.
Những vị thần tạo ra một ngọn đuốc và một bục khá cao để hai vị thần nhảy vào lửa. Họ triệu hồi
Tecciztecatl và Nanahuatzin lên đỉnh và sau đó, Tecciztecatl thiêu rụi chính mình. Nhưng giây phút
cuối cùng, hắn lại hoảng sợ. Hắn cố thoát ra, gắng gượng và thu mình lại. Mặt khác, Nanahuatzin
bình tĩnh bước vào và dâng mình cho lửa. Xấu hổ trước sự quả cảm của Nanahuatzin, Tecciztecatl
nhảy ngay sau. Một lát sau, có hai mặt trời cùng bay lên bầu trời.
Ghê tởm trước sự sợ sệt của Tecciztecatl, một vị thần đã lấy một con thỏ ném vào mặt hắn.
Tecciztecatl bị mờ và biến thành mặt trăng. Nanahuatzin, bay cao và toả ra sức mạnh và sự thông
thái, cả thế giới được hong khô và sáng bừng. Vì vậy, các vị thần còn tạo ra những cơn gió để đẩy
mặt trời đi khỏi bầu trời và tạo thành ngày và đêm.

23
Đế quốc Aztec, hay Tam Đồng Minh, khởi đầu như một liên minh của ba "altepetl" người Nahua: México-Tenochtitlan,
México-Texcoco, và México-Tlacopan.
24
Theo bản dịch của Histoyre du Mechique, Nanahuatzin là con trai của Itzpapalotl và Cuzcamiahu hay Tonan, nhưng
được Piltzintecuhtli và Xōchiquetzal nhận nuôi. Trong Codex Borgia, Nanahuatzin được thể hiện như một người đàn ông
trỗi dậy từ ngọn lửa. Điều này ban đầu được hiểu là một hình ảnh minh họa cho việc ăn thịt đồng loại.
49 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

SÁU CON THIÊN NGA – EIGHT OF COINS


Chuyện cổ tích Đức, Đức | Six Swans – Germany, German Fairy Tale

Có một nhà vua khi vợ ông ta chết, để lại cho ông sáu người
con trai và một cô con gái. Nhà vua nhanh chóng kết hôn với
một người phụ nữ bí ẩn đến từ rừng sâu. Ghen tị với những đứa
con trai, bà lẻn vào phòng của những hoàng tử và biến chúng
thành bầy thiên nga, đày chúng ra bên ngoài. Bà nói rằng sáu
người con đã chết, nhưng công chúa không tin bà ta, và cô chạy
vào rừng sâu. Ở đó cô gặp một bà tiên mách cô rằng anh trai
cô đã bị nguyền rủa, nhưng câu thần chú chỉ mất hiệu nghiệm
nếu cô làm cho mỗi người anh cô một chiếc áo bằng cây tầm
ma và không được nói một lời nào khi đang làm chúng.
Anh em thiên nga tìm thấy em gái mình, và biết được việc cô
phải làm, đưa cô qua biển để đến vùng đất mới, ở đó họ xây
cho cô một ngôi nhà. Cô làm việc không mệt mỏi trong suốt
một năm, dùng tay không để vặt tầm gai, nghiền nát chúng
bằng chân không, và dệt và đan những chiếc áo bằng tất cả tấm
lòng mà không hé răng nói một lời.
Một ngày nọ, khi cô đang làm việc. Nhà vua nhìn thấy cô và
đem lòng yêu mến. Chàng ta dỗ dành cô về lâu đài của mình,
và sống trong sự bảo vệ nghiêm ngặt. Mặc dù chàng tặng cô
nhiều món quà bằng tấm chân thành, cô cũng không nói hay cười mà chỉ cặm cụi làm việc. Nhà vua
thì vô cùng yêu thương cô, nhưng mẹ của anh thì khinh thường cô. Tìm nhiều cách để phái hoại cô.
Bà buộc tội nàng công chúa, người đang đan những chiếc áo bằng cây tầm ma. Nàng công chúa vẫn
không thể nói một lời biện minh, nên bị kết án mang lên giàn thiêu.
Nàng công chúa làm việc càng dữ dội hơn, và vào ngày hành quyết, cô đã làm xong tất cả chiếc áo
trừ một chiếc chưa làm xong phần tay áo. Khi giàn thiêu được nâng lên, sáu chú thiên nga xuất hiện,
cô đưa cho mỗi con một chiếc áo. Chúng ngay lập tức biến thành sáu chàng trai, trừ em trai út, vẫn
còn đôi cánh thiên nga. Lúc này có thể nói, cô kể hết câu chuyện của mình. Mọi người kinh ngạc
trước phép màu, và nàng được kết hôn với vua của vùng đất mới. Họ sống với nhau hạnh phúc.
50 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

SỰ TÍCH DƯA HẤU – NINE OF COINS


Huyền thoại Việt Nam, Việt Nam | The Legend of the Watermelon – Vietnam, Vietnamese Legend

Từ rất lâu về trước, có một cậu bé được Hùng Vương thứ XVII
nhận nuôi. Anh ta tên là Mai An Tiêm, càng lớn càng đẹp trai,
thông minh và khéo léo nên vua muốn gả con gái cho anh ấy.
Nhà vua tặng chàng trai trẻ Mai An Tiêm ngôi nhà lớn và rất
nhiều người hầu. Khi vợ anh sinh ra ba người con, vua tặng họ
nhiều của cải hơn nữa, và cả gia đình sống hạnh phúc trong
nhung lụa.
Sự thiên vị Mai An Tiêm làm người khác ghen ghét. Trong một
bữa tiệc, một cận thần đã bảo Mai An Tiêm gặp vận may, và
anh ấy đã trả lời tất cả sự may mắn đó bởi vì anh sống tốt. Tên
hầu đó nói lại với vua rằng Mai An Tiêm không hề biết ơn và
kính trọng đến vua vì sự nâng đỡ.
Vị vua nổi giận, ngay lập tức đày Mai An Tiêm và gia đình anh
đến một đảo hoang. Gia đình họ cố gắng sống trên đảo với một
chút nước sạch. Mai An Tiêm đi tìm thêm nước và thấy một
con chim màu vàng đang mổ thứ gì đó trên mặt đất. Lại gần
kiểm tra thấy một thứ quả ngon với ruột đỏ như máu và nhiều
hạt. Mai An Tiêm cắn một miếng và say mê với vị ngọt ngào;
nó xoa dịu cơn đói khát của anh. Anh liền mang nó cho gia
đình mình, và họ cùng nhau trồng thứ quả đó.
Cái cây đơm hoa kết trái và chàng đặt tên là “dưa hấu”. Mai An Tiêm khắc tên mình trên vỏ của quả
dưa rồi thả trôi ngoài biển. Một thương lái thấy và ăn chúng, muốn mua bán thật nhiều với gia đình
anh. Họ buôn bán dưa hấu. Họ có nhà và thêm nhiều nhân công, sống trong cuộc sống giàu có.
Nhà vua nghe tin về dưa hấu Mai An Tiêm và thừa nhận khả năng của anh ấy chứ không phải do sự
thiên vị của mình. Nhà vua cầu xin anh tha thứ, và đại gia đình đoàn tụ đầy hạnh phúc.
51 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

PAN HU – TEN OF COINS


Huyền thoại Yao, Trung Quốc | Pan Hu – China, Yao Legend

Ngày xửa ngày xưa, hoàng hậu Trung Quốc bị một cơn đau tai
rất khủng khiếp, nên bà cho truyền nhà thái y. Họ gắp được một
con sâu nhỏ bằng vàng trong tai bà, và cơn đau ngay lập tức
biến mất. Thay vì giết sinh vật nhỏ bé kia, hoàng hậu lại đặt nó
trên một cái đĩa, bên dưới là cái lọ với chút đồ ăn và thức uống.
Khi bà quay lại kiểm tra nó, thì nó đã biến thành một con chó
nhỏ, bà đặt tên là Pan Hu, và nó sớm trở thành con vật cưng của
nhà vua, theo bất kỳ nơi đâu mà nhà vua đi. Cũng chính Pan Hu
là con vật đầu tiên biết được kẻ thù nước láng giềng đang âm
mưu tấn công nhà vua.
Nhà vua hứa gả cô con gái mình cho bất kỳ ai mang được đầu
của tên cầm đầu. Nhưng kẻ đó cũng là một chiến binh đáng sợ,
khó lòng có thể đánh bại hắn. Pan Hu mang theo móng vuốt sắc
nhọn của mình: lẻn vào cung điện, và nhân lúc hắn đang say
trong bữa tiệc, Pan Hu đã cắt đầu ông. Con chó quay lại với đầu
kẻ thù, nhà vua tổ chức bữa tiệc linh đình chào đón nó. Nhưng
Pan Hu không thoải mái, nhà vua liền nhớ đến lời hứa gả con
gái mình.
Ông giải thích con người không thể kết hơn với con chó. Pan
Hu nói rằng vấn đề đó có thể khắc phục. Nó yêu cầu nhà vua nhốt nó trong chiếc chuông khổng lồ và
không ai được phép làm phiền trong vòng bảy ngày. Nhà vua đồng ý, và trong sáu ngày không một
ai quấy rầy. Đến ngày thứ bảy, công chúa cảm thấy lo lắng cho Pan Hu, nghĩ rằng nó sẽ đói và khát.
Cô mang nước và đồ uống, kéo chiếc chuông lên một chút, nhưng đã vô tình phá vỡ phép thuật.
Pan Hu mang cơ thể của người và đầu chó. Nhưng nhà vua vẫn chúc phúc cho cả hai người, và Pan
Hu kết hôn với công chúa. Họ có rất nhiều con cháu sau này.
52 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

BEAIVI-NIEIDA – PAGE OF COINS


Huyền thoại người Sami, Thuỵ Điển | Beaivi-Nieida – Sweden, Sami25 Legend

Cao về phía bắc vòng Bắc Cực (Arctic Cirlce), mùa đông dài
và tăm tối với ánh sáng mặt trời lờ mờ và biến mất khá lâu.
Người Sami vẫn sống và chăn thả tuần lộc trong khi đợi thần
Mặt Trời quay lại, Beaivi, và con gái nữ thần, Beaivi-nieida.
Trong đêm đông lạnh lẽo, sự vắng mặt của Beaivi và Beaivi-
nieida làm mùa đông kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến sức
mạnh tinh thần của họ. Trong khoảng thời gian đó, thần linh
trở nên yếu dần đi, cho nên phải hiến tế tuần lộc trắng để mang
họ sức mạnh để quay lại. Chúng phải là tuần lộc cái, loài nhanh
nhất, sẽ mang đi hiến tế.
Vào mùa xuân, Beaivi quay lại trên bầu trời. Băng tan ra, sự
sống đâm chồi, và đàn tuần lộc sẽ nảy nở. Bà ấy sẽ ban sức
mạnh tinh thần vốn bị xấu đi vào mùa đông. Bà ấy và người
con gái của mình, Beaivi-nieida, bay trên trời cao trong một
chiếc xe trượt tuyết bằng sừng hươu, và họ mang đến sự sinh
sôi nảy rở. Vào mùa hè, đàn tuần lộc sinh sản, và đồ ăn làm từ
sữa tuần lộc béo ngậy được gửi tặng hai vị thần như một lời
cảm ơn.
Vào một lần, rất lâu về trước, khi Beivi-nieida để lại mẹ mình
trên bầu trời và xuống mặt đất cùng với loài người. Cô ấy tốt bụng và chia sẻ hiểu biết của mình cho
mọi người. Thoạt đầu họ biết ơn cô và lắng nghe những lời dạy, thêu thùa, làm nút, những bài hát của
biển, và rất nhiều rất nhiều kỹ năng khác. Nhưng cuối cùng họ ghen ghét với tài năng bất tận của cô,
cho nên tìm cách giết nàng. Họ đặt bẫy Beaivi-nieida và nghiền nát cô ấy dưới một hòn đá lớn, cho
nên cô quay lại bầu trời với mẹ mình, thần mặt trời và không bao giờ quay lại nữa.

Người Sami là một dân tộc Finn-Ugria cư ngụ tại vùng Bắc Cực thuộc Sápmi, ngày nay bao gồm phần miền bắc của
25

Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, và bán đảo Kola.


53 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

HEITSI-EIBIB – KNIGHT OF COINS


Thần linh người Khoikhoi, Nam Phi | Heitsi-Eibib – South Africa, Khoikhoi26 Deity

Thời điểm sơ khai của thế giới, có một con bò rất đẹp. Trong
khi lúc được chăn thả, nó phát hiện và thưởng thức những
miếng cỏ ngon lành kỳ diệu, và một thời gian sau nó sinh ra
Heitsi-Eibib. Heitsi-Eibib là chàng trai có ma thuật kỳ diệu,
kỹ năng chiến đấu vô song, sự nhanh trí, khả năng thay đổi
hình dạng, và thậm chí có thể sống lại khi anh ấy chết. Anh
ấy đi trên mặt đất và dùng sức mạnh của mình để đặt những
con vật vào môi trường sống lý tưởng của chúng, ví dụ như
mang những chú cá ra khỏi sa mạc rồi thả chúng về biển, và
tách sư tử ra khỏi cây rồi mang chúng chạy nhảy trên mặt đất.
Vì thế anh được mệnh danh là thần săn bắn.
Heitsi-Eibib di chuyển khắp mọi nơi và nhanh chóng được
biết đến với sức mạnh và sự thông minh. Anh đã có nhiều
hành trình, ở một vài nơi anh ấy là anh hùng và vài nơi khác
anh ấy là kẻ tinh ranh. Vào thời điểm đó, có một con quái vật,
Ga-gorid, kẻ chuyên quấy dối dân làng. Họ kêu gọi sự giúp
đỡ của Heitsi-Eibib. Ga-gorid đào một chiếc hố sâu và mai
phục bên trong đó. Nó bắt mọi người ném đá vào người nó,
nhưng những hòn đá lại bật quay lại những người ném đá, họ
rơi xuống hố và chết. Trước khi Heitsi-Eibib đến ngôi làng,
đã có rất nhiều người chết. Chàng nhận ra mánh khoé của Ga-gorid và chờ Ga-gorid chế nhạo chàng.
Khi Ga-gorid van nài Heitsi-Eibib ném đá vào người nó, chàng từ chối. Thay vào đó chàng chỉ tay
và hét to “Kia là cái gì?” và khi Ga-gorid nhìn theo, Heitsi-Eibib đánh vào sau mang tai và đẩy nó ra
khỏi hố, nó lập tức chết. Hoà bình quay trở lại, mọi người biết ơn và tưởng niệm về Heitsi-Eibib.

26
Khoikhoi ("người người" hay "người thực sự") hoặc Khoi, viết là Khoekhoe trong văn phong tiếng Khoekhoe/Nama
chuẩn, là một nhóm người bản địa miền tây nam châu Phi. Không như những người San chuyên săn bắt-hái lượm lân cận,
người Khoikhoi có truyền thống mục súc.
54 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

WARAMURUNGUNDJU – QUEEN OF COINS


Thần linh người Gunwinggu, Bắc Úc | Waranurungundju – Northern Australia, Gunwinggu27 Deity

Vào thời điểm sơ khai, trái đất trống trải và khô ráo. Khi rắn
Cầu vồng (Rainbow Serpent28) đến và mang theo sự ẩm ướt
của mưa và lũ. Loài rắn khổng lồ sử dụng sức mạnh của thân
mình để trượt trên mặt đất từ những con sông và mòng biển.
Nó tạo ra sấm chớp, và sống trong hố nước nơi không vào giờ
khô. Rắn Cầu vồng dẫn vị thần Waranurungundju từ bên kia
biển cả.
Khi đặt chân lên mặt đất, Waranurungundju, một trong nhiều
tên của bà ta, sinh ra những người đầu tiên. Bà có rất nhiều
con, và mỗi đứa bà mang sống ở một nơi khác nhau và một
ngôn ngữ riêng để giao tiếp. Đó là lí do tại sao có rất nhiều
ngôn ngữ trên thế giới, mặc dù họ cùng chung một người mẹ.
Waranurungundju di chuyển khắp nơi, và sinh thêm nhiều
con. Bà cùng rắn Cầu vồng, đều có chu kỳ kinh nguyệt, ngày
sinh nhật và mùa sinh sản. Nhưng con rắn rời bỏ bà ở những
nơi không cần mưa nữa. Bà đi cùng người đàn ông Wuragg.
Nhưng rồi Wuragg rời bỏ bà để đi theo hành trình riêng của
mình và theo những người vợ trước khi quay về núi.
Waranurungundju vẫn chỉ có một mình, bà sinh ra động vật,
cây cối và đặt mọi thứ vào đúng vị trí của nó. Bà tạo ra loài ong mang mật ngọt; bà cũng tạo ra cây
đa. Bà còn chạm khắc và tạo ra những địa hình tự nhiên. Và bà mang trách nhiệm nhiều những vùng
ngoại ô, và những đứa con sống trong thịnh vượng.
Khi đi đến nơi tận cùng của thế giới thì bà biến mất. Nhiều người cho rằng bà lại quay về biển cả,
nhưng một số khác lại nghĩ rằng bà vẫn ở đâu đó trên mặt đất, nhưng không một ai đảm bảo cả.

27
Người Gunwinggu (Kunwinjku) là một thổ dân Úc, một trong một số nhóm thuộc tộc người Bininj, sống quanh Vùng
đất Tây Arnhem ở phía đông Darwin, Lãnh thổ phía Bắc. Người Kunwinjku thường tự gọi mình là "Bininj" (có nghĩa là
người, hoặc thổ dân).
28
Rắn Cầu Vồng (Raimbow Snake) là một vị thần phổ biến thường được coi là thần sáng tạo, được biết đến với nhiều tên
gọi trong các ngôn ngữ thổ dân Úc khác nhau, và là một mô típ phổ biến trong nghệ thuật và tôn giáo của thổ dân Úc.
Không phải tất cả các huyền thoại về tổ tiên đều liên kết cầu vồng với rắn và không phải tất cả đều mô tả sinh vật là rắn,
nhưng thường có liên kết với nước hoặc mưa. Một số học giả cho rằng mối liên hệ giữa hai yếu tố này cho thấy chu kỳ
của các mùa, chẳng hạn như màu xanh lam (mùa đông), màu đỏ (mùa hè), màu vàng (mùa xuân) và màu da cam (mùa
thu), và tầm quan trọng của nước trong đời sống con người. Khi cầu vồng được nhìn thấy trên bầu trời, nó được cho là
Con rắn Cầu vồng di chuyển từ hố nước này sang hố nước khác và khái niệm thần thánh đã giải thích tại sao một số hố
nước không bao giờ khô cạn khi hạn hán xảy ra.
55 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

HAH-NU-NAH, RÙA THẦN – KING OF COINS


Thần thoại Iroquois, Bắc Mỹ | Hah-Nu-Nah, The World Turtle29 – Northern America, Iroquois30
Mythology

Thưở sơ khai, có một hòn đảo lơ lửng trên bầu trời, với một cái
cây lớn mọc ở giữa mang ánh sáng và sự trù phú. Trên hòn đảo,
không có sự sinh ra hay mất đi hoặc bệnh tật hoặc nỗi muộn
phiền; tất cả cư dân sống trong yên bình và hạnh phúc. Cho đến
khi chuyện chồng của Nữ thần bầu trời và chuyện bà có thai
bại lộ, Ngọc hoàng, nhổ cái cây và đẩy bà xuống hố. Bà ấy ngã
xuống, Nữ thần bầu trời bám vào một cành cây và nắm lấy vài
hạt giống xuống cùng mình. Bà ấy rơi khỏi hòn đảo nổi và rơi
xuống đám mây và cuối cùng xuống đại dương ở bên dưới.
Hai con chim nước thầy bà rơi xuống. chúng đưa bà lên trên
lưng và bay lên, nhưng vì bà quá nặng nên không thể giữ được
lâu. Khi chúng mang bà đến một sinh vật khác, chúng nghĩ rằng
bà ấy cần một nơi cứng cáp để dựa. Chúng tìm đến Hải ly,
nhưng hải ly lặn xuống tầng đại dương để lấy ít đất, nó chết
chìm. Vịt cố thử, nhưng nó cũng chết chìm. Cuối cùng, Xạ
hương lặn xuống và một lúc lâu sau nó mang lên một thứ đầy
bụi bẩn. Thứ đầy bụi bẩn đó được đưa cho chú rùa khổng lồ
Hah-Nu-Nah – sinh vật đủ khoẻ để cứu thế giới – và nó đặt
chúng trên cái mai của mình.
Đám bụi đó lớn dần thành mặt đất, và lưng của Hah-Nu-Nah mang mặt đất đó trong tầng đại dương
của vũ trụ. Hai chú chim đặt Nữ thần bầu trời lên mặt đất mới, và bà mở trong tay hạt giống của nhiều
loài cây cỏ trên trái đất. Bà có hai người con trai sinh đôi. Sapling thì tốt bụng ngọt ngào, chàng tạo
ra cá và những dòng sông và những loài cây ăn được. Flint vô tình giết mẹ mình khi bà ấy sinh cậu
ra, và anh ấy làm dòng sông chảy theo một hướng và cá thì có bộ xương rất nhỏ, và những quả mọng
mọc trong bụi gai. Hai anh em mang thân thể mẹ để tạo thành mặt trăng và mặt trời.

29
Ngày Rùa Thế Giới, Happy World Turtle Day, ngày 23 tháng 5 hàng năm.
30
Iroquois hay Haudenosaunee là một liên minh bản địa lịch sử ở đông bắc Bắc Mỹ. Trong những năm thuộc địa, người
Pháp gọi là Liên đoàn Iroquois, sau này là Liên minh Iroquois và với người Anh là Năm quốc gia, bao gồm Mohawk,
Onondaga, Oneida, Cayuga và Seneca.
56 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

NÚT THẮT GORDIAN – ACE OF SWORDS


Huyền thoại Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ | Alexander The Great and Gordian Knot – Turkey, Greek Legend

Ở phía Tây Anatolia, có một vương quốc tên Phrygia. Truyền


thuyết kể rằng, người Phrygia không có vua, bởi vậy, nhà tiên
tri Telmissus đã nói với mọi người rằng người đàn ông tiếp
theo vào thủ đô của họ bằng một chiếc xe bò sẽ trở thành vua.
Mọi người đồng ý, và khi người nông dân Gordias cưỡi một
chiếc xe bò, đã lập tức trở thành vị vua. Họ đặt tên ông là
Gordium, và con trai ông, Midas sau đó cũng trở thành vị vua
tiếp theo, dành tặng chiếc xe bò cho Zeus. Midas cột chặt chiếc
xe vào một cái nút thắt to và lộn xộn. Thật khó để biết được
làm sao có thể làm ra nút thắt đó. Nó được gọi là nút thắt
Gordian.
Nhiều thế hệ đi qua, và Phrygia mở rộng thêm các tỉnh
Achaemenid, hay Persian, Empire. Vào lúc đó, một lời tiên tri
khác rằng bất kể ai có thể tháo được nút thắt Gordian sẽ trở
thành người cai quản toàn bộ châu Á. Nút thắt đó vẫn cứ lộn
xộn như vậy cho đến khi Alexander Đại Đế xuất hiện.
Alexander Đại Đế sinh ra giữa nhà vua Macedon, Philip II, và
người vợ Olympias. Cha ngài bị ám sát khi Alexander vừa tròn
hai mươi, và ngài nhanh chóng trở thành vua của Macedon.
Ngài còn củng cố sức mạnh của mình và giữ chức vụ cao của Hy Lạp. Ngài mang đội quân hùng
mạnh, tràn vào vương quốc Achaemenid, và chiếm được Sardis và Caria trước khi giành lấy Gordium.
Khi đến thành phố ngài mới chinh phục, Alexander thấy chiếc xe vẫn bị cột ở một nút thắt khổng lồ.
Cho dù Alexander cố như thế nào, thì cái nút đó vẫn rối. Cuối cùng, Alexander lùi lại và lý luận rằng
không có gì khác biệt khi nút thắt được nới lỏng, qaun trọng là chiếc xe được tự do. Bởi vậy Ngài
dùng kiếm của mình và chém một nhát cắt đôi sợi dây.
Alexander tiếp tục thực hiện lời tiên tri, chinh phục Châu Á cũng như Indus và Oxus và là vị Đại Đế
vị đại nhất trong lịch sử.
57 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

SITA – TWO OF SWORDS


Sử thi Hindu Ramayana, Ấn Độ | Sita – India, Hindu Epic Ramayana31

Dasharatha là vua của tất cả Ayodhya32, và mặc dùng ông đã


có ba người vợ, nhưng ông ấy không có một mụn con nào. Khi
ông thực hiện lễ tế lửa, cuối cùng được sự chúc phúc, sinh ra
Rama, Lakshmana, và Bharata, tất cả đều được trời phú cho
những đặc điểm của thực thể ba ngôi tối cao (Supreme Trinity
Entity), Vishnu. Vishnu đã quyết định sinh ra phải “có sinh có
tử”, chỉ có điều đó có thể đánh bại vua quỷ Ravana. Cho nên
khi đứa trẻ của Rama mười sáu tuổi, vị hiền nhân vĩ đại
Vishwamitra đã dạy cậu và anh em của cậu cách để đánh bại
con quỷ, đưa cho họ một vũ khí vô song.
Gần Mithila, vua Janaka đang cày ngoài đồng, vô tình thấy một
bé gái trong luống cày. Ông mang cô về nuôi và đặt tên là Sita,
và cô càng lớn càng xinh đẹp và được chiều chuộng. Janaka
quyết định người xứng đáng với Sita phải là một người có thể
nâng được cây cung nặng gia truyền của nhà ông do thần Shiva
tặng. Rama biết về chiếc cung đó, nhưng cậu cũng rất khoẻ bẻ
gẫy cây cung khi cầm nó trên tay. Cho nên Rama và Sita đã kết
hôn với nhau.
Sự ghen tị và phản bội của bà mẹ kế anh ấy, người muốn
Bharata thành công, Rama bị đày ra khỏi Ayodhya. Anh ấy đi cùng người vợ trung thành Sita, và
người anh, người bạn trung thành Lakshmana. Vua ác quỷ Ravana biết được Rama đã đánh bại được
rất nhiều ác quỷ, đã bắt cóc Sita để trả thù. Hắn mang cô về nhà, nơi mà cô liên tục từ chối lời cầu
hôn của hắn, nhất quyết trung thành với Rama. Sau nhiều lần cố gắng, Rama cuối cùng đã đánh bại
được Ravana và thả tự do cho Sita.
Nhưng những kẻ hèn hạ lại đồn rằng Sita đã phản bội khi ở cùng Ravana, và Rama đã yêu cầu cô
chứng minh sự trong sạch của mình bằng ngọn lửa, Pariksha. Giữa hai lựa chọn khó khăn, Sita đã
nhảy xuống lửa. Thần Agni đã bảo vệ cô, chứng minh sự vô tội, và cô cùng Rama quay trở lại
Ayodhya.

31
Rāmāyaṇa là một sử thi cổ đại viết dưới dạng trường ca tiếng Sanskrit và là một phần quan trọng của bộ kinh Ấn Độ
giáo. Đây là bộ sử thi bằng tiếng Phạn nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ cổ đại. Người ta cho rằng tác giả của Ramayana là
nhà thơ Valmiki.
32
Ayodhya là một thành phố và quận lỵ của quận Faizabad thuộc tiểu bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
58 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

VỢ HẠC – THREE OF SWORDS


Chuyện cổ tích Nhật Bản, Nhật Bản | Crane Wife – Japan, Japanese Fairy Tale

Có một chàng tiều phu nghèo nhìn thấy một con hạc xinh đẹp
bị mắc bẫy. Chàng ta động lòng thương, và thả cho con hạc
tự do. Trước khi bay lên trời, con hạc nhìn vào sâu đôi mắt
chàng trai.
Vài ngày sau, một cô gái gõ cửa xin trú nhờ. Cô trông rất thu
hút và xinh đẹp, chàng trai liền ngỏ lời cầu hôn. Cô gái ngay
lập tức gật đầu đồng ý, cô cũng hết lòng với chàng tiều phu.
Không lâu sau, họ kết hôn, nhưng cuộc sống không hề dễ
dàng. Chàng tiều phu thì nghèo, cố gắng làm lụng gấp đôi để
nuôi mình và người vợ.
Cô gái thấy vậy liền ngỏ lời dệt vải để bán. Cô chỉ yêu cầu
chồng mình không bao giờ được lại gần khi cô ấy đang làm
việc. Mặc dù có chút lúng túng nhưng chàng trai đồng ý. Vài
ngày sau, vợ của anh ấy đi ra với dáng vẻ yếu ớt và mệt mỏi,
đưa cho anh một tấm vải lộng lẫy nhất mà anh từng thấy. Anh
mang ra chợ bán và kiếm được rất nhiều tiền, đủ để anh ấy
mua được nhiều thứ tốt.
Kể từ ngày đó, hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc.
Người vợ vẫn làm việc trong căn phòng bí mật, và đều ra khỏi
phòng với vẻ mặt mệt mỏi, nhưng tấm vải sau còn đẹp hơn so với tấm vải lần trước. Chàng tiều phu
mang nó ra chợ bán với giá cao hơn, rồi quay về nhà với nhiều món quà đắt giá.
Mặc dù cuộc sống đã trở nên dễ dàng hơn, nhưng chàng trai bắt đầu cảm thấy lo lắng cho người vợ,
khi càng ngày nàng càng trở nên yếu ớt. Cuối cùng, vì quá tò mò, một đêm nọ, khi người vợ đang
làm việc, chàng trải cậy cánh cửa và nhìn trộm. Thì ra, vợ anh là một con hạc – con hạc lấy chiếc
lông của mình một cách từ từ và đau đớn để dệt thành tấm vải.
Anh ta thở hổn hển, và cô gái quay lại thấy người chồng đã phát hiện bí mật của mình. Cô rất giận
dữ vì anh đã không giữ lời hứa. Cô cất cánh bay và không bao giờ quay trở lại.
59 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

FENRIR – FOUR OF SWORDS


Thần thoại người Bắc Âu, Na Uy | Fenrir – Norway, Norse Mythology

Ở Asgard, Thần lừa lọc Loki, là æsir, hay vị thần ở Bắc Âu, có
ba người con cùng người vợ Angrboda33, Jötunn, kẻ chơi
khăm. Chúng là mãng xà khổng lồ Jörmungandr34, nữ tử thần
Hel35, và con sói Fenrir. Những vị thần trị vì Asgard sớm phát
hiện những đứa bé đó và sợ chúng không chỉ vì sức mạnh tàn
ác mà bởi vì người mẹ, và người cha lừa lọc của chúng. Họ tiên
tri rằng chúng sẽ mang đến nhiều chết chóc và tàn phá.
Odin, thủ lĩnh của các vị thần, ngài đã ném Jörmungandr xuống
biển, và đầy Hel xuống cai quản vùng đất lạnh lẽo tên Niflheim.
Nhưng ông ta biết phải đối phó với Fenrir theo một cách khác.
Lời tiên tri nói rằng Fenrir sẽ lật đổ Odin và gây ra Ragnarök36,
hay ngày tận thế. Những vị thần để Fenrir bên cạnh, hàng ngày
nó ăn và càng ngày càng lớn cho đến khi họ lo lắng không thể
giữ được nó. Họ nghĩ ra một kế hoạch để bẫy con sói. Họ trói
con sói lại và nói rằng muốn kiểm tra sức mạnh của nó. Fenrir
không sợ, những sợi xích quấn quanh nó, nó làm đứt sợi xích
bằng những cú đá dũng mãnh. Giấu đi nỗi sợ hãi, những vị thần
mang đến một sợi xích thứ hai khoẻ hơn. Nó đồng ý thử vì
muốn danh tiếng của mình phải được lan truyền. Sợi xích cũng
bị đứt.
Những vị thần yêu cầu Quỷ lùn làm một sợi xích ma thuật, Gleipnir. Đó là một dây băng mỏng khiến
Fenrir cảm thấy mơ hồ. Con sói sẽ thử một lần nữa với điều kiện nó phải được thả ra và một vị thần
phải đặt một bàn tay vào miệng nó. Chỉ có thần Tyr dũng cảm làm điều đó. Khi Gleipnir trói quanh
Fenrir, con sói cố gắng đạp và quẫy nhưng không thể thoát khỏi sợi dây đó. Trong cơn thịnh nộ, nó
cắn bàn tay của Tyr, và những vị thần đã trả thù bằng đặt một thanh kiếm vào miệng nó để cạy cho
miệng mở. Họ cột con sói vào một tảng đá khổng lồ, và cho đến ngày nay nó vẫn chờ một ngày thoát
ra và gây ra Ragnarök.

33
Angrboða là một jötunn (một loại thực thể tương phản với các vị thần và các nhân vật khác, chẳng hạn như người lùn
và yêu tinh) trong thần thoại Bắc Âu. Cô là bạn đời của Loki và mẹ của quái vật.
34
Jormundgandr là rắn thần nổi tiếng nhất trong thần thoại Bắc Âu. Sau này khi Ragnarok tới, trong một trận chiến sinh
tử với Thor, chú rắn này sẽ làm nên kì tích, đó là giết chết được vị thần mạnh mẽ nhất - Thor sau khi hi sinh anh dũng.
35
Hel (còn có tên Hela) là một nữ tử thần thuộc thần thoại Bắc Âu, người cai quản địa ngục Nifheim. Hel nửa thân trên
là phụ nữ với đôi mắt lạnh lùng giống như người chết, nửa thân dưới thì lở loét ghê rợn đến nỗi ngay cả những vị thần
cũng không dám nhìn vào mặt Hel, người thường vô phúc nhìn thấy ả thì ngay lập tức máu đông lại và chết ngay lập tức.
36
Ragnarök là chương cuối cùng trong thần thoại Bắc Âu. Là một chuỗi các sự kiện đen tối trong tương lai mà dẫn đến
một trận chiến lớn - sự kết thúc của vũ trụ và cái chết của nhiều vị thần trong thần thoại Bắc Âu, khá tương đồng với Khải
huyền trong Kinh thánh.
60 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

OSIRIS, SET, VÀ ISIS – FIVE OF SWORDS


Thần thoại Ai Cập, Ai Cập | Osiris, Set, and Isis – Egypt, Egyptian Mythology

Vào thời điểm sơ khai, thần Ra xuất hiện và tạo ra thế giới. Ông
tạo ra thần trái đất, Geb, và thần bầu trời, Nut, và họ cùng tạo
ra thần Osiris, Isis, Set, và Nephthys. Thần Ra trị vì Ai Cập
trong một khoảng thời gian, và cuối cùng được chuyển cho
Osiris. Osiris trị vì cùng vợ mình, Isis, và tuân theo luật Maat,
hay những quy luật tự nhiên. Nhưng Set mang sự huỷ diệt và
sự hỗn loạn, giết chết Osiris, chặt anh ta, và rải các phần cơ thể
khắp Ai Cập.
Isis oà khóc, và nước mắt của nàng tạo thành sông Nile, mang
đến sự sống. Nàng bỏ trốn khỏi Set với sự giúp đỡ của
Nephthys, bay như một con chim ưng đi tìm xác của chồng
mình. Khi tất cả các mảnh được tìm thấy, Isis gọi Thoth, thần
chữa lành, và Anubis, thần danh dự, để hồi sinh chồng minh.
Họ cùng nhau dùng sức mạnh để biến Osiris thành xác ướp đầu
tiên của Ai Cập. Isis bay xung quanh Osiris và thổi sự sống vào
chồng mình bằng cách đập đôi cánh của cô ấy. Sau đó nàng
nằm cạnh anh ấy rồi có thai. Osiris rời đi để cai trị Duat, mảnh
đất chết chóc. Isis, trong khi đó, trốn trong bụi cây cói cho đến
khi sinh đứa con trai, Horus.
Horus khi còn bé rất dễ bị làm hại, và Set đã cử nhiều sinh vật nguy hiểm đến đầu độc và làm hại nó.
Anh ấy phải chịu đựng tất cả mọi thứ từ vết đốt bọ cạp đến rắn cắn vào bụng. Bằng sức mạnh chữa
lành của Isis, nàng đã cứu lấy con mình và sau đó chữa cho thần dân Ai Cập.
Cuối cùng Horus lớn lên và thách thức Set. Để chứng minh ai mới đáng trị vì, những cuộc thi đấu
được giám sát bởi Ennead, hay nhóm thần thánh Ai Cập. Trận đấu tay đôi kéo dài và tàn bạo dẫn đến
Horus mất đi đôi mắt. Sau nhiều năm chiến tranh, Horus cuối cùng chiến thắng. Set bị đầy ra sa mạc,
và Horus trị vì theo cách người cha của mình.
61 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

DANAE VÀ PERSEUS – SIX OF SWORDS


Thần thoại Hy Lạp, Hy Lạp | Danaë37 and Perseus38 – Greece, Greek Mythology

Ngày xửa ngày xưa tại Argos, có vị vua Acrisius và cô con


gái duy nhất Danae. Khi vua Acrisius nghe được lời tiên tri
rằng ông sẽ bị chết dưới bàn tay của người cháu ruột của
mình, ông nhốt Danae dưới tầng hầm bằng đồng với mái vòm
có thể nhìn lên trời, nơi giam giữ được xây trong khu vườn
tại cung điện của nhà vua, vì thế không một chàng trai nào có
thể lại gần cô. Nhưng thần Zeus biến thành biến mình thành
những hạt mưa vàng rơi vào trong toà tháp, và làm cô có thai.
Danae âm thầm sinh ra một đứa con trai, và đặt tên cậu là
Perseus. Khi cha cô biết được điều đó, ông yêu cầu Danae và
Perseus ngồi trong một chiếc rương và thả ra biển.
Cậu bé và mẹ mình trôi lênh đênh, nhưng bởi sự dung thứ của
những vị thần, họ an toàn cập bến đến một hòn đảo ở
Seriphos. Có một người đánh cá Dictys giúp họ chỗ ẩn náu,
và họ sống trong hạnh phúc. Cùng lúc đó, vua Seriphos,
Polydectes, thích Danae. Nhưng ông cảm thấy Perseus là một
trở ngại lớn, nên ông yêu cầu cậu chặt đầu Medusa.
Medusa là một quái vật đầu rắn (Gorgon), thân là người phụ
nữ với nhiều con rắn trên đầu của mình. Hình dạng và cái
nhìn của ả có thể hoá đá tất cả ai nhìn vào. Perseus có thể đánh bại ả bởi một chiếc gương để tránh
cái nhìn trực tiếp. Anh chặt đầu của ả và đặt vào một cái túi, quay trở về Seriphos như một vị anh
hùng. Thật không may, nhà vua lại không nghĩ cậu sẽ quay về, và Danae, từ chối Polydectes, đã trốn
lên ngôi đền Athena. Giận dữ vì sự ngược đãi với mẹ mình, Perseus đã dùng đầu của Medusa biến
Polydetecs thành đá.
Perseus gặp lại mẹ mình, và họ cùng nhau quay về Argos. Vua Acrisius sợ hãi mình sẽ chết dưới bàn
tay của cháu trai, nên đã tự lưu đày đến một nơi xa. Nhưng trong một trò chơi tưởng niệm Acrisius,
Perseus đã ném một chiếc đĩa và nó bay lạc giết Acrisius ngay lập tức.

37
Công chúa Danae, con gái duy nhất của vua Acrisius, xứ Argos.
38
Perseus (tiếng Hy Lạp: Περσεύς) là người anh hùng đầu tiên trong Thần Thoại Hy Lạp đã từng đánh bại những con
quái vật cổ xưa được biết với nhiều cái tên tạo ra bởi 12 vị thần của Olympic. Perseus là người hùng của Hy Lạp đã giết
Medusa (Quái vật tóc rắn) và giải cứu Andromeda (Công chúa Aethiopia) khỏi con quái vật biển Cetus của Thần Poseidon
(Thần cai quản biển cả) để trừng phạt nữ hoàng Cassiopeia vì bà dám nói rằng con gái của bà - công chúa Andromeda
(có bản ghi là vẻ đẹp của chính bà) đẹp hơn nhiều lần chị em Nereid, con gái của thần biển Nereus).
62 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

SÓI ĐỒNG CỎ – SEVEN OF SWORDS


Huyền thoại người Salish, Tây Bắc Thái Bình Dương | Coyote – Pacific Northwest, Salish39 Legend

Không có một chú trâu nào xuất hiện bên sườn tây của dãy núi
Rocky, bởi vì sói đồng cỏ. Sói là kẻ lừa gạt, nhưng nó cũng
làm nhiều điều tốt cho thế giới, và cả những chuyện không hay.
Sói bước dọc miền đồng bằng đến phía đông của dãy núi, nó
phát hiện một cái đầu lâu trâu, một sinh vật to lớn và đe doạ
đến cuộc sống của sói nhưng rồi con trâu cũng yếu đuối và chết
một cách thảm hại. Con sói cười lớn và chế nhạo cái đầu lâu,
đá và khạc nhổ vào nó trước khi bước đi cùng niềm vui thích.
Nhưng không lâu sau đó con sói nghe thấy tiếng rầm rầm và
quay lại nhìn đằng sau nó, thấy con trâu đang đuổi theo mình,
nó đã được hồi sinh. Con sói sử dụng ma thuật để biến ra ba
cái cây để có thể chống lại. Con trâu lật đổ hai trong ba cái cây
với chiếc sừng của nó trước khi con sói thuyết phục trâu nghỉ
một lúc để phân tán sự tập trung của nó trước khi nó phá cái
cây thứ ba.
Con sói đánh lạc hướng con trâu bằng hỏi một câu hỏi. Nó thấy
con trâu đã chết trong tay của thợ săn Trâu non (Young
Buffalo), người đã bắt cả một đàn trâu. Con sói đề nghị làm
cho trâu một cái sừng mới để nó có thể đánh bại Trâu non. Con
trâu đồng ý và không giết con sói nữa. Con sói làm một cặp sừng đen nặng và sắc, và với chúng, con
trâu có thể quay lại đàn để đánh bại Trâu non.
Con trâu ban ơn sói bằng một con bò non và nói rằng nếu nó không giết con bò, thì con bó sẽ mang
thịt cho nó mãi mãi. Con sói chỉ cần cắt phần mỡ - không phải phần cơ và đắp tro lên vết thương để
chữa lành. Con sói ăn được vài ngày, và quay về sườn tây. Nhưng cuối cùng con sói phát ngán phải
ăn mỡ và muốn xương, tuỷ và thận. Nó nghĩ con trâu không thể biết được. Tuy nhiên, khi nó giết con
bò, chim ác là và quạ đã cướp những phần còn lại của con bò. Quá xấu hổ, con sói quay lại chỗ con
trâu và phát hiện con bò đó trong bầy. Con trâu từ chối tặng một con bò mới, nên con sói phải quay
về phía tây, nơi mà không có một con trâu nào cho đến ngày nay.

39
Salish (/ˈseɪləʃ /) ban đầu chỉ dùng để chỉ nhóm bản địa ngày nay được gọi là Bitterroot Salish của Montana và ngôn
ngữ của họ là Salish.
63 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

MIẾNG DA LỪA – EIGHT OF SWORDS


Chuyện cổ tích Pháp, Pháp | Donkey Skin – France, French Fairy Tale

Có một nhà vua điển trai có một con lừa có thể đẻ ra vàng. Nhà
vua lấy một người phụ nữ xinh đẹp nhất trên thế gian, và cùng
nhau có một cô con gái, sống yên bình trong vương quốc giàu
có. Nhưng ngày nọ, khi nữ hoàng nằm trên giường bệnh, bà
yêu cầu nhà vua hứa không dược kết hôn với ai khác trừ khi
người đó đẹp hơn bà. Ông đồng ý, và bà nhắm mắt. Vì cô đơn,
nhà vua buộc phải tìm người vợ mới, nhưng ông nhận ra rằng
chỉ có cô con gái là đủ xinh đẹp để thoả mãn lời hứa.
Công chúa bị tra tấn và được bà tiên giúp đỡ. Bà tiên nói rằng
cô có thể đưa ra một yêu cầu không thể cho nhà vua trước khi
trước khi bằng lòng. Công chúa chỉ cần yêu cầu một bộ áo sáng
như mặt trời, bộ váy diệu kỳ như mặt trăng, những phụ kiện
lấp lánh như vì sao, và cuối cùng áo choàng phải làm được từ
da của con lừa đẻ vàng kỳ diệu. Khi nhà vua làm tất cả mọi thứ,
bao gồm cả giết con lừa đã mang lại sự trù phú cho cả vương
quốc, tấm chân thành của nhà vua ai cũng điều biết, nhưng
nàng công chúa mặc chiếc áo da lừa để cải trang và nhét cả ba
chiếc váy vào thành một quả óc chó.
Nàng công chúa bỏ trốn đến một vương quốc khác, cô bắt đầu
làm bếp ở lâu đài hoàng gia. Cô tiếp tục trốn sau lớp da lừa xấu xí, nhưng khi tiệc tùng cô lại mặc bộ
quần áo lộng lẫy. Hoàng tử ở đó khi nhìn thấy cô và đã đem lòng yêu ngay từ ánh nhìn đầu tiên.
Chàng sinh bệnh trong khoảng thời gian dài và từ chối ăn bất kỳ gì cho đến khi gặp lại cô gái trong
bộ đồ da lừa kia. Nhiều người chùn chân, nhưng cô công chúa cải trang kia lại làm cho hoàng tử một
chiếc bánh có chiếc nhẫn của cô nhét vào đó.
Khi chiếc nhẫn không thể vừa với bất kỳ một ai, nàng công chúa mới lộ ra và đeo vừa chiếc nhẫn một
cách vừa khít. Cô lập tức biến bộ da lừa thành chiếc váy tuyệt hảo và biến thành nàng công chúa xinh
đẹp. Cô và hoàng tử kết hôn và cùng nhau sống hạnh phúc.
64 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

OEDIPUS – NINE OF SWORDS


Thần thoại Hy Lạp, Hy Lạp | Oedipus40 and the Oracle at Delphi – Greece, Greek Mythology

Vua Laius và nữ hoàng Jocasta trị vì Thebes nhưng mãi không


có mụn con nào. Nhưng cuối cùng, Jocasta mang bầu, và
những hoàng gia tham khảo ý kiến nữ tư tế Apollo tại Delphi
về đứa bé. Một sự thật tàn khốc rằng con trai của Laius sẽ giết
ngài. Để tránh điều đó, nhà vua ra lệnh bỏ rơi đứa bé cho đến
chết trên ngọn núi với mắt cá chân bị buộc chặt để nó không
thể bò đi. Người hầu mang đứa bé bỏ rơi thấy cậu bé rất đáng
thương nên đã âm thầm đem cho người chăn cừu, anh ta đã
mang đem cho vị vua Polybus và nữ hoàng Merope, Corinth,
họ cũng không có con, và đặt tên cậu bé là Oedipus.
Oedipus trở thành hoàng tử, khi trưởng thành, chàng ta tham
khảo ý kiến nữ tư tế tại Delphi. Bà ta bảo định mệnh của anh
ta sẽ giết cha và lấy mẹ mình. Cảm thấy sỉ nhục Oedipus,
người không hề biết mình là con nuôi, đã chọn trốn tránh định
mệnh bằng cách không quay trở lại Corinth. Anh ấy đi đến và
sinh sống ở Thebes. Trên đường đi, khi qua một ngã tư, anh
ta đã tranh cãi với một người đàn ông hiếu chiến, và giết ông
ta mà không biết rằng người đó ông ấy là vua Laius, hay người
cha thực sự của mình.
Trước khi đến Thebes, Oedipus gặp Nhân sư (Sphinx), và đã giải được câu đố của cô ta đưa ra, cô ấy
cho phép chàng đi qua. Cuộc đối đầu đã lan truyền rất nhanh, anh trai của nữ hoàng Jocasta, Creon,
truyền lệnh bất kỳ ai có thể đánh bại Nhân sư xứng đáng kết hôn với goá phụ Jocasta và trở thành
vua của Thebes. Vì thế Oedipus và Jocasta kết hôn và có bốn người con. Vài năm sau, tai hoạ giáng
xuống Thebes, và họ đến tìm nữ tư tế ở Delphi. Bà ấy nói cách duy nhất để thoát khỏi tai hoạ là mang
kẻ giết vua Laius ra công lý.
Oedipus hứa sẽ giết chết kẻ nào đã làm chuyện ấy một cách tàn bạo, nhưng khi anh điều tra, anh ta
phát hiện ra chính mình là người đã giết Laius. Jocasta và Oedipus nhận ra hai người là mẹ con. Quá
đau khổ, Oedipus chọc mù mắt và tự đày mình lang thang mãi mãi.

40
Oedipus là một vị vua huyền thoại của Thebes. Một người anh hùng có số phận bi thảm trong thần thoại Hy Lạp. Một
cách vô tình, Oedipus đã thực hiện lời tiên tri dành cho mình rằng, ông sẽ giết chết cha mình và kết hôn với mẹ mình, do
đó sẽ mang lại tai họa cho đất nước và gia đình mình.
65 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

SEDNA – TEN OF SWORDS


Thần thoại người Inuit, Canada | Sedna41 – Canada, Inuit Mythology

Có một người phụ nữ xinh đẹp tên Sedna sống ở miền tuyết
trắng phương Bắc xa xôi. Khi đã đến tuổi cập kê, nhưng Sedna
lại không muốn lấy chồng. Cô thấy tất cả những người đến cầu
hôn cô đều có nhược điểm và sợ mình sẽ phải lấy một chú chó
kéo xe.
Cha cô vô cùng tức giậc. Cho đến khi một thợ săn bí ẩn đẹp
trai xuất hiện, xin được cầu hôn với Sedna, cô liền đồng ý.
Người thợ săn vô danh hứa sẽ cung cấp cho gia đình cô đầy đủ
thịt thà và lông thú. Sau khi họ kết hôn, anh ta đưa cô đến hòn
đảo anh sinh sống. Trong một lần, anh thú nhận mình không
phải hoàn toàn là người, mà là một chú chim cải trang thành.
Sedna mặt tái mét vì sự lừa dối đó và thậm trí còn tức giận, một
con chim làm sao có thể là một người thợ săn tốt. Anh chỉ bắt
và cho cô ăn cá, nên cô không có thịt hay là lông thú. Nhưng
cô lại bị mắc kẹt trên hòn đảo này, và cố gắng làm tất cả những
điều có thể.
Cuối cùng, cha của Sedna đến thăm và thấy được hoàn cảnh
đáng thương của con gái mình. Ông cũng nhận thấy người đàn
ông bí ẩn kia là kẻ dối trá. Ông đã giết con chim, đưa Sedna về
nhà. Nhưng khi gia đình chim biết được con mình bị giết, kêu lên đầy tức giận. Chúng muốn trả thù
cho anh, vỗ cánh thật mạnh để tạo ra cơn bão. Con thuyền nhỏ không thể chống chịu lại cơn bão, và
cha của Sedna muốn xoa dịu lũ chim và muốn tự cứu lấy chính mình, đã đẩy Sedna xuống thuyền.
Cô nhanh chóng bấu lấy thành thuyền và không chịu rời đi, nhưng cha cô đã dùng con dao, cắt đứt
ngón tay của cô. Sedna chìm xuống đáy đại dương trong cơn thịnh nộ, cô trở thành vị thần biển cả
nóng nảy. Những ngón tay cô biến thành hải cẩu và cá voi, và mái tóc cô vướng vào tất cả sinh vào
sinh vật biển trên thế giới.
Vì vậy, bất cứ ai muốn săn bắt ở đại dương, họ cần phải xoa dịu Sedna và cầu cho cô giải phóng
những sinh vật biển khỏi tay cô ấy.

41
Sedna (trước đây là Sidne) là nữ thần biển cả và các loài động vật biển trong thần thoại Inuit, còn được gọi là Mẹ của
Biển hoặc Bà chủ của Biển.
66 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÔNG CHÚA PARIZADE – PAGE OF SWORDS


Chuyện cổ tích Ả Rập, Tiểu Á | Princess Parizade – Anatolia42, Arabic Fairy Tale

Hoàng đế Kosrouschah một lần cải trang vi hành vương quốc


của mình, khi ông nghe thấy ba chị em nghèo nói về người
chồng mơ ước của mình. Chị cả nói muốn lấy một thợ làm bánh
hoàng gia và cô ấy có thể ăn bánh mì cả ngày. Chị hai nói mình
muốn lấy một đầu bếp hoàng gia và ăn những sơn hào mĩ vị cả
ngày. Cô em út, người xinh đẹp nhất, nói rằng mình muốn kết
hôn với nhà vua và sinh con cho ông ấy. Vị hoàng đế đang nghe
lén mừng thầm, và ngày hôm sau ông ấy biến ước mơ của các
cô thành hiện thực. Hai cô chị ghen ghét em gái mình. Khi cô
ấy sinh ra một bé trai, và một bé trai nữa, và một bé gái, họ bắt
những đứa trẻ và thả chúng trôi sông. Họ bảo với nhà vua là
em mình sinh ra chó, mèo và một chiếc gậy. Nhà vua mặt tái
mét và bỏ tù vợ mình trong một toà tháp cao.
Ba đứa trẻ được cứu bởi một người làm vườn hoàng gia và ông
đặt tên lần lượt là Bahman, Perviz và Parizade. Họ sống với
nhau hạnh phúc cho đến khi ông chú mất, nhưng ông đã không
nói sự thật về bố mẹ của chúng. Ba anh em đau buồn cho đến
một này Parizade gặp một bà cụ già, sự tốt bụng của cô đã được
bà chỉ cho ba món đồ quý giá: con chim biết nói, cái cây biết
hát, và nguồn nước vàng. Nhưng hai anh cô không cho phép cô
rời đi và thay vào đó đi lấy giúp cô. Một giáo sĩ đến và nói với hai anh em trai rằng cứ bang qua núi
và tuyệt đối không được quay đầu lại cho dù nghe bất cứ âm thanh gì. Nhưng hai anh em không thể
làm ngơ trước lời chế nhạo đằng sau mình. Họ quay lại và biến thành hòn đá. Parizade sau cùng cũng
đi. Cô bịt tai mình bằng bông và cười trước những lời chế nhạo đằng sau mình. Ở đỉnh núi, cô tìm
thấy ba món đồ quý giá. Cô dùng nguồn nước vàng để cứu hai anh của mình; cô mang cây biết hát
đặt vào khu vườn của mình; bằng lời khuyên của con chim biết nói, cô thuyết phục nhà vua rằng cô
và hai anh mới chính là con đẻ của ông ấy. Mẹ cô được thả tự do, và họ trở thành một gia đình hoàng
gia hạnh phúc.

42
Tiểu Á, hay Anatolia là một bán đảo của châu Á mà ngày nay thuộc lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ, bắc giáp với Biển Đen, nam
giáp Địa Trung Hải, ngăn cách với châu Âu bởi biển Aegea và biển Marmara ở phía tây và giáp với phần đất đai rộng lớn
còn lại của châu Á ở phía đông.
67 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

HANG TUAH – KNIGHT OF SWORDS


Huyền thoại Malaysia, Malaysia | Hang Tuah43 – Malaysia, Malaysian Legend

Một trong những chiến binh nổi tiếng nhất của Malaysia là
Hang Tuah, một laksamana (admiral - đô đốc), một chuyên gia
trong môn võ Silat44.
Hang Tuah là một tiều phu, nhưng sức mạnh và kỹ năng đưa
anh đến người thầy Adi Putera. Người thầy này đã huấn luyện
Hang Tuah và bốn người bạn của anh, Hang Kasturi, Hang
Lekir, Hang Lekiu, và Hang Jebat với môn võ Silat và thiền.
Năm người bạn đồng hành trở nên điêu luyện, và sự hung ác
của họ sớm được mọi người biết đến.
Một ngày nọ, một nhóm người khủng bố khu vực gần
Kampung Bendahara. Chúng rất tàn nhẫn đến mức người vệ sĩ
giỏi nhất vùng đó cũng bị doạ. Nhưng Hang Tuah biết được
điều đó, anh ấy cũng những người bạn đồng hành tấn công đám
người với sức mạnh của bọn họ, chúng bỏ chạy. Hang Tuah và
bạn mình mang đầu của những tên lính đến diện kiến đức vua
Muzaffar Syah.
Hang Tuah nhanh chóng trở thành đô đốc trung thành nhất của
nhà vua, kỹ nghệ và hành động của anh trở thành huyền thoại.
Trong một lần tới thăm Majapahit, Hang Tuah đã chiến đấu và
thắng ở một cuộc chiến khốc liệt với Taming Sari, một pendekar (master – chiến binh) Silat nổi tiếng.
Phần thưởng là anh đã cai quản Majapahit, Singhavikramavardhana, ban cho Hang Tuah Keris
Taming Sari, một con dao găm ma thuật, thấm nhuần chủ nhân của nó với sự bất khả xâm phạm.
Hang Tuah cũng giúp đức vua cưới người đẹp Tun Teja, con gái của Seri Amar Di Raja Inderaputra,
thủ tướng hoàng gia của Pahang. Mặc dù nhà vua cầm tay cô xin kết hôn, nhưng ngài bị từ chối vì lí
do chính trị. Do vậy với những món quà và lọ thuốc tình yêu, Hang Tuah đã cướp Tun Teja đi thật
xa. Khi cha cô phát hiện, ông ta cử thuyền đuổi theo Hang Tuah, và một cuộc chiến khốc liệt xảy ra.
Cuối cùng Hang Tuah thắng, và mang Tun Teja đến cho nhà vua. Hang Tuah sau này cung phụng
nhà vua rất lâu về sau.

43
Hang Tuah là một chiến binh sống ở Malacca dưới triều đại của vua Mansur Shah vào thế kỷ 15. Ông được cho là
người mạnh nhất trong tất cả các laksamana, hay người ngưỡng mộ, và được người Mã Lai coi là một trong những bậc
thầy silat vĩ đại nhất trong lịch sử.
44
Pencak-Silat là một môn võ xuất phát từ Philippines, Indonesia và Malaysia. Do môn võ này được dùng nhiều để huấn
luyện cho binh lính nên nhiều khi nó còn được gọi là võ nhà binh. Các kiểu đánh của môn võ này khác nhau tùy theo
vùng và thường mô phỏng theo động tác của các con vật.
68 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÔNG CHÚA TURANDOT – QUEEN OF SWORDS


Chuyện cổ tích Ả Rập, Trung Quốc | Turandot45 – China, Arabic Fairy Tale

Có một nàng công chúa tên Turandot, nàng rất xinh đẹp làm
cho bao chàng trai đắm say và ngỏ ý cầu hôn. Nhưng nàng ghét
tất cả đàn ông. Quá khứ của nàng bị bạo hành bởi bàn tay của
kẻ xâm hại, cho nên nàng thề sẽ không bao giờ kết hôn. Nhưng
vất nhiều người đàn ông vẫn muốn theo đuổi cô ấy, cho nên
nàng đã đưa ra một thử thách. Nếu ai muốn cầu hôn phải trả lời
đúng ba câu đố. Nếu trả lời sai một câu, họ sẽ bị chặt đầu.
Ở vương quốc nọ có một hoàng tử trẻ tuổi xứ Tartary; cha anh
là một vị vua bị phế quyền; và một cô người hầu tên Liu. Họ
đi đến và thấy hoàng tử Iran trả lời sai ba câu đó và chết trước
vẻ lạnh lùng của Turandot. Chàng hoàng tử Tartary lập tức yêu
công chúa Turandot ngay ở đó. Liu, người yêu thầm hoàng tử,
cầu xin chàng đừng tham gia giải đố.
Cha của Turandot, một vị hoàng đế, cảm thấy mệt mỏi với thử
thách của con gái mình và khuyên hoàng tử trẻ tuổi nên bỏ
cuộc. Nhưng chàng không màng tới những lời đó và trả lời
đúng cả ba câu đó. Vô cùng ngạc nhiên. Turandot bị rơi vào
bẫy. Nàng khóc và cầu xin cha mình giúp nàng phá bỏ lời tuyên
thệ của nàng. Nhưng nhà vua yêu cầu nàng cần giữ lời hứa.
Chàng hoàng tử đến lại gần trước những giọt nước mắt của Turandot, đưa ra một lời đề nghị. Nếu
nàng có thể biết tên thật của chàng, cô ấy có thể giết chàng.
Vì thế, Turandot truyền những tên lính đến tìm hiểu tên thật của chàng, nhưng không một ai biết.
Cuối cùng, họ mang người hầu tên Liu và nàng yêu cầu cô ấy phải nói tên hoàng tử. Nhưng cô từ
chối, họ tra tấn cô. Nhưng cô không chịu hé răng nửa lời, chỉ nói một tiếng “tình yêu”. Cuối cùng,
nàng bị đâm và chết trong tay của vị hoàng tử. Hoàng tử ôm xác của cô gái, quở trách Turandot về
sự tàn nhẫn của nàng.
Nàng công chúa Turandot bị lẫn lộn giữa cảm xúc yêu và thù, yêu cầu hoàng tử rời đi. Thay vào đó,
hoàng tử nói tên của mình, hoàng tử Calaf, con của vua Timur. Khi bình minh ló rạng, nhà vua hỏi
công chúa Turandot về tên vị hoàng tử. Nàng gọi chàng ta là “tình yêu”, và họ kết hôn với nhau.

45
Công chúa Turandot (tiếng Trung là Đồ Lan Đóa) là một tác phẩm hiếm hoi trong lịch sử văn học Phương Tây (thế kỷ
XVIII) viết về bối cảnh Trung Quốc, bởi xét về khoảng cách địa lý lúc bấy giờ Châu Âu và Châu Á biết rất ít về nhau.
Tác giả vở kịch là Carlo Gozzi (1720 – 1806), một kịch gia nổi tiếng nước Ý. Vở Turandot của ông được xem là một
trong 10 kiệt tác của kho tàng văn học kịch thế giới.
69 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

GRIFFIN – KING OF SWORDS


Thần thoại Iran, Iran | Griffin46 – Persia, Persian Mythology

Griffin là một sinh vật hỗn hợp, nửa sư tử nửa đại bàng. Nó là
vua của những động vật và loài chim, sự uy nghiêm và sức
mạnh của chúng thể hiện sự tự do và sức mạnh trong chiến
tranh. Móng vuốt của chúng có chứa dược tính chữa bệnh, và
lông của chúng có thể chữa mù. Chúng bảo vệ kho báu, những
nơi tìm thấy Griffin là gần đó sẽ thấy vàng. Chúng làm tổ bằng
vàng mà nó đào được ở trên đá. Trưởng lão Pliny, một nhà lịch
sử Hy Lạp, ghi chép chiến binh một mắt người Arimaspi47 liên
tục gây chiến với Griffin. Những chiến binh sống gần chân núi
Rhipaion phía bắc Skythia và chiến đấu với Griffin, sinh vật
bảo vệ dòng sông vàng.
Griffin cũng hẹn hò và chung thuỷ với bạn tình của mình,
chúng sẽ không tìm bạn tình mới cho đến khi người bạn tình
kia của mình chết. Chúng theo chủ nghĩa một vợ một chồng và
sự tận tâm kiên định. Sự pha trộn giữa hai sinh vật mặt đất và
bầu trời giúp chúng di chuyển ở hai địa hình này, là sự kết nối
giữa trời và đất, thần thánh và con người.
Griffin có thể di chuyển dài và rộng. Chúng được tìm thấy
trong các bức vẽ và tác phẩm điêu khắc thời kỳ cổ người Iran
và thậm chí nền văn minh Ai Cập cổ đại. Griffin được ghi chép ở Syria, Anatolia, và Hy Lạp. Chúng
ở trên những bức bích hoạ ngai vàng ở cung điện Knossos ở Crete48. Chúng cũng được biết đến ở
Tây Á như Ấn Độ, và xuất hiện thường xuyên trên các huy hiệu ở phía tây Châu Âu.
Griffin đôi khi được miêu tả như sinh vật kéo cỗ xe ngựa thần Apollo. Apollo là vị thần Hy Lạp về
sự chữa lành, thuốc thang, bắn cung, thơ ca, và âm nhạc. Một trong mười hai vị thần của Olympia và
người quyền lực nhất của ngôi đền thờ các vị thần, ông chỉ đứng nhìn sau đàn gia súc của thần mặt
trời Helios. Nhưng cuối cùng, ông là vị thần mang mặt trời vào mỗi buổi sáng với sự trợ giúp của
Griffin, mạnh hơn cả những con bò, kéo cỗ xe của ông.

46
Griffin, griffon, hoặc gryphon là một sinh vật huyền thoại với thân, đuôi và chân sau của sư tử; đầu và cánh của đại
bàng; và đôi khi là móng vuốt của đại bàng như bàn chân trước của nó. Bởi vì sư tử theo truyền thống được coi là vua
của các loài thú và đại bàng là vua của các loài chim, vào thời Trung cổ, Griffin được cho là một sinh vật đặc biệt mạnh
mẽ và uy nghi. Kể từ thời cổ đại, Griffin được biết đến với vai trò canh giữ kho báu và tài sản vô giá.
47
Arimaspi là một bộ tộc huyền thoại gồm những người một mắt ở phía bắc Scythia sống ở chân đồi của dãy núi Riphean.
48
Crete là trung tâm của văn minh Minoan (c. 2700–1420 TCN), nền văn minh có trình độ phát triển cao đầu tiên tại
châu Âu, và là nền văn minh đã tạo nên các cung điện đầu tiên của châu Âu.
70 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÂY BÚT THẦN – ACE OF WANDS


Chuyện dân gian Trung Quốc, Trung Quốc | The Magic Paintbrush – China, Chinese Folk Tale

Có một chàng trai trẻ nghèo tên Mã Lương (Ma Liang) rất
thích vẽ. Vào một đêm, chàng mơ thấy một ông lão đưa cậu
một cây bút thần và yêu cầu chàng giúp mọi người. Khi chàng
tỉnh dậy, cây bút thần trong tay cậu.
Bất kỳ cái gì Mã Lương vẽ bằng cây bút thần đều trở thành
sự thật, và anh ấy dùng nó để giúp đỡ mọi người xung quanh
chàng. Chàng dùng bút để vẽ một dòng sông bên cạnh một
cánh đồng khô hạn và vẽ thức ăn cho những người nghèo.
Danh tiếng của chàng truyền đi xa, và mọi người đều biết ơn
Mã Lương.
Cũng trong làng đó có một tên giàu có, hắn cũng thích thú với
cây bút thần. Hắn không muốn giúp đỡ mọi người, thay vào
đó hẵn vẽ vàng để giúp hắn trở nên giàu hơn. Trong đêm tối,
hắn cử thuộc hạ đến nhà Mã Lương, và trong khi Mã Lương
ngủ, chúng ăn trộm bút thần.
Ngày hôm sau, tên nhà giàu vẽ rất nhiều bức tranh về sự giàu
có theo trí tưởng tượng của hắn. Nhưng không một cái gì hắn
vẽ, không một bức tranh nào biến thành sự thật. Vô cùng giận
dữ, hắn ra lệnh cho thuộc hạ đến bắt cóc Mã Lương và mang
anh đến đây. Khi Mã Lương đến, tên nhà giàu yêu cầu anh vẽ cho hắn không thì phải chịu hình phạt.
Mã Lương mỉm cười đồng ý. Anh hỏi ông muốn vẽ cái gì, hắn nói muốn một núi vàng. Cho nên Mã
Lương vẽ một ngọn núi, nhưng anh vẽ ngọn núi giữa biển cả rộng lớn. Người giàu ra lệnh vẽ một con
thuyền lớn để vượt biển với nhiều gian phòng để đựng vàng. Nên Mã Lương vẽ một con thuyền lớn,
và người đàn ông giàu có cùng người hầu lên thuyền ra khơi. Nhưng khi đi được nửa đường, chàng
vẽ một cơn bão lớn, và con thuyền bị lật chon nên tất cả người trên thuyền mất tích trên biển.
Kể từ đó, Mã Lương và người dân trong làng sống với nhau yên bình và hạnh phúc.
71 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

JANUS – TWO OF WANDS


Thần thoại Rome, Ý | Janus – Italy, Roman Mythology

Janus là thần Roman của sự bắt đầu, giữ cổng, thời gian, hành
trình, và kết thúc. Ông ấy là hiện thân của sự giao dịch, luôn
có một đầu nhìn về tương lai và một đầu nhìn về quá khứ. Ông
đóng vai trò quan trọng với du lịch, trao đổi, và vận tải, đặc
biệt vì có liên quan đến thần hải cảng, Portunus.
Janus là một vị thần hiếm có bởi vì ông xuất thân từ loài người.
Câu chuyện bắt đầu với vị thần nông với sức mạnh to lớn,
Saturn. Ông cai quản ngọn đồi Capitoline cho đến khi bị chính
người con trai lật đổ, Jupiter – sau này trở này vua của các vị
thần. Chạy trốn khỏi cơn thịnh nộ của con trai mình, Saturn
tìm nơi ẩn náu tại Latium và ở cùng vua Latium, Janus. Janus
chào đón Saturn vô cùng cởi mở, vì thế mùa màng Latium trở
nên phồn thịnh, đặc biệt là ngành trồng nho (viticulture). Janus
chia sẻ nửa vương quốc của mình cho Saturn, và cùng cai quản
đất nước một cách hoà thuận. Latium phát triển một cách thịnh
vượng, trở thành kỷ nguyên vàng, sau này là thành phố Rome,
trung tâm của đế chế Roman. Để đền đáp công lao, Janus trở
thành vua giữ cổng và là nhân vật kết nối con người với các vị
thần đền Roman.
Janus cũng trở thành người bảo hộ cho tất cả sự khởi đầu. Ông tạo ra các mùa, và ngày đầu tiên trong
tháng đều được cúng ông. Ông là người giữ cổng, và người bảo vệ lối vào và lối ra, và vị thần có hai
mặt. Ông rất quan trọng với người Rome, nên họ xây cho ông năm điện thờ riêng biệt. Tất cả các điện
thờ đều được xây gần các con sông hay nguồn nước. Điện thờ đẹp nhất ở gần Argiletum. Đền này có
bức tượng Janus ở giữa, nơi đặt rượu mời, và cánh cửa bằng đồng lớn ở hai đầu, nó sẽ mở khi chiến
tranh và đóng lại khi yên bình.
72 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CHÚ HEO BỊ PHÙ PHÉP – THREE OF WANDS


Chuyện cổ tích Romania, Romania | The Enchanted Pig – Romania, Romanian Fairy Tale

Ngày xửa ngày xưa, có một nhà vua phải ra trận để bảo vệ
vương quốc của mình. Ông nói với ba người con gái rằng
chúng có thể tự do đi bất kì chỗ nào của lâu đài trừ một căn
phòng bí mật. Họ đã không tuân theo lệnh của nhà vua, và
trong phòng đó có một quyển sách đã dự báo rằng cô chị cả sẽ
kết hôn với hoàng tử phương Đông, chị hai sẽ lấy hoàng tử
phương Tây và cô em út sẽ lấy chú heo từ phương Bắc. Nhanh
chóng nhà vua quay trở lại, ông phát hiện ba cô con gái đã đọc
cuốn sách. Ít lâu sau, hoàng tử phương Đông đến kết hôn với
chị cả, hoàng tử phương Tây lấy chị hai, và chú heo đến cầu
hôn cô em út.
Thoạt đầu, nhà vua từ chối lời cầu hôn của chú heo, bỗng nhiên
cả vương quốc ùn ùn heo chạy qua. Nhà vua buộc lòng phải
đồng ý. Cô gái kết hôn với chú heo và cùng sống chung trong
một toà lâu đài. Hàng đêm, chú heo biến thành chàng hoàng tử
trẻ, đẹp trai và vô cùng tốt bụng, nên cô đem lòng yêu và muốn
phá bỏ lời nguyền kia.
Cô gặp mụ phù thuỷ, bà dặn cô buộc một sợ sên chân chồng
cô. Nhưng cô không biết bà phù thuỷ có ý đồ xấu, và thay vì
phá vỡ, nó làm lời nguyền mạnh hơn. Chồng cô sau đó buộc phải chạy trốn, và cô đuổi theo chàng.
Cô công chúa đeo ba đôi dày sắt và ba đồ phụ trợ trên hành trình tìm chồng mình. Cô cầu xin Mặt
trăng, Mặt trời và Ngọn gió giúp đỡ, và chúng đưa cô một cái túi đầy xương gà. Cô đến chỗ Con
đường sữa và sử dụng đống xương đó làm thành bậc thang để trèo lên toà lâu đài trên bầu trời nơi
chồng mình ở đó. Nhưng không may thay, bậc thang của cô thiếu mất một đoạn xương ngắn, nên cô
đã cắt ngón út bằng dao găm và để tiếp tục trèo lên bầu trời.
Sau khi cô công chúa thả tự do cho chồng mình, chàng nhận ra chàng đã giết chết một con rồng. Con
rồng đó chính là con của mụ phù thuỷ đã phù phép anh, người đã đưa công chúa lời khuyên. Lời
nguyền trên người hoàng tử biến mất và nó giúp hai người xuống mặt đất. Sau đó, họ cùng nhau sống
cuộc sống hạnh phúc.
73 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

MOHINI VÀ ARAVAN – FOUR OF WANDS


Thơ sử thi tiếng Phạn, Ấn Độ | Mohini and Aravan – India, Sanskrit Epic Poem

Mahabharata, sử thi thần thoại Hindu, chủ yếu ghi lại năm
anh em Pandava và trận chiến của họ, Kauravas49, chiến
thắng giành ngai vàng của Hastinapura50 trong vương triều
Ấn Độ vua Kuru. Đó là trận chiến Kurukshetra, và nó diễn ra
trong 18 ngày và kéo theo chết chóc của hàng triệu người.
Thời điểm bắt đầu trận chiến, bên Pandava khá đông đảo và
sự thất bại là một điều không thể. Krishna51, hiện thân thứ
tám của Vishnu, vị thần bảo hộ, hỗ trợ bên Pandavas. Ông ta
khuyên rằng cần một người tự mình hiến tế cho thần Kali, Vị
thần của Thời gian và Sự huỷ diệt, để đảm bảo phần thắng
cho Pandavas. Aravan đã tình nguyện là người đó.
Aravan là con trai của Arjuna, người anh thứ ba của
Pandavas, và Ulupi, công chúa (rắn) Naga. Anh ấy là một
chiến binh vĩ đại không sợ cái chết, nhưng anh ấy muốn được
kết hôn trước khi chết. Bởi vì anh ấy muốn nghi thức an táng
và hoả táng của một người đàn ông đã có vợ hơn là một anh
chàng độc thân mang đi chôn. Thật không may, không người
phụ nữ nào chịu lây anh ấy để trở thành một kẻ goá bụa chịu
số phận khủng khiếp. Nhưng vị thần Krishna đã đồng ý lấy
anh ấy. Ngài lập tức chuyển sang hình dáng phụ nữ hiếm thấy
của mình, Mohini, để kết hôn và giành trọn một đêm với Aravan. (Đám cưới của họ được tưởng nhớ
cho đến ngày nay ở Tamil, nơi mà Aravan là vị thần bảo trợ của cộng đồng Hijra chuyển giới.)
Sau đó, Aravan lao vào trận chiến mà anh biết mình phải chết. Anh đã hạ gục được rất nhiều tên
tướng mạnh bên địch. Người lớn tuổi nhất Kaurava đã triệu hội Alamvusha khổng lồ để đánh nhau
với Aravan. Aravan triệu hồi hình dạng con rắn của anh ấy, Shesha, nhưng Alamvusha triệu hồi hình
dạng đại bàng khổng lồ Garuda rồi sau đó chặt mất đầu anh ấy. Cuối cùng Aravan bị giết, và bên anh
em Pandava chiến thắng.
Mohini nghe tin về cái chết của Aravan và số phận goá bụa của mình liền bẻ vòng tay, đập vào ngực
mình, và vứt bỏ bộ đồ cô dâu trước khi quay về hình dạng Thần bảo hộ Krishna.

49
Kaurava là một thuật ngữ tiếng Phạn để chỉ hậu duệ của Vua Kuru, một vị vua huyền thoại, là tổ tiên của nhiều nhân
vật trong Mahābhārata. Các Kauravas nổi tiếng là Duryodhana, Dushasana, Vikarna, Yuyutsu và Dussala. Yuyutsu không
phải là con trai của Gandhari, nhưng anh ta cùng tuổi với Duryodhana và Bhima.
50
Hastinapur là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Meerut thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
51
Là vị thần thứ tám, đồng thời là một trong những hiện thân mang lực lượng mạnh mẽ nhất của Vishnu, Thần Krishna
là Thiên Chủ Đoàn của Ba Ngôi trong Ấn Độ giáo, bao gồm các Thần trong Ấn Độ giáo là Shiva và Phạm Thiên.
74 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

PANDAVAS – FIVE OF WANDS


Thơ sử thi tiếng Phạn, Ấn Độ | The Pandavas – India, Sanskrit Epic Poem

Pandu, quốc vương của Hastinapur, một lần vô tình giết Sage
Rishi Kindama và vợ ông ấy khi họ đang làm tình trong hình
dạng loài hươu. Bằng hơi thởi cuối cùng, vị hiền nhân đã
nguyền rủa vị vua rằng ông sẽ chết đem lòng yêu vợ mình hay
bất kỳ người phụ nữ nào. Trong sự đau khổ, Vua Pandu đã từ
bỏ ngai vàng và đi lưu đày với hai người vợ Kunti và Yama.
Vua Pandu không thể có con, Kunti đã nhờ thần Yama, Vayu,
Svarga, và cặp song sinh Ashvin làm cha con của cô ấy và
Madri. Họ có năm người con, đó là năm anh em –
Yudhisthira, Bhima, Arjuna, Nakula, và Sahadeva – được biết
đến là Pandavas.
Một ngày nọ Pandu cho truyền vợ của ông ta Madri, và lời
nguyền được thực hiện, ông lập tức chết. Anh em Pandava
quay trở lại Hastinapur để lấy lại ngai vàng từ tay anh em
Yudhisthira. Nhưng anh em nhà Pandu, Dhritarashtra trị vì
khi họ lưu đày. Trong những năm tháng đó, Dhritarashtra và
vợ anh ta, Gandhari, có một trăm người con là Kauravas,
người nhiều tuổi nhất là Duryodhana, sẽ thừa kế vương quốc.
Linh cảm thấy sự nguy hiểm, Duryodhana đã xây một ngôi
nhà dễ cháy và yêu cầu Pandavas ở trong đó. Năm anh em đã thoát khỏi đó nhờ một đường hầm và
vào một khu rừng trước khi Duryodhana châm lửa đốt nhà. Trong rừng, năm anh em nghe thấy cuộc
thi bắn cung để được kết hôn với nàng công chúa xinh đẹp Draupadi. Arjuna thắng trong cuộc thi đó,
và theo nguyện vọng của mẹ bọn họ, tất cả phải được chia công bằng, tất cả năm Pandavas cùng kết
hôn với Draupadi.
Pandavas quay trở về nhà, Dhritarashtra chia vương quốc ra làm hai, phần giàu có cho người con trai,
Duryodhana, và phần cằn cỗi cho cháu trai Yudhisthira. Anh em Pandava xây dựng phần của mình
đẹp như thiên đường, khiến Duryodhana trở nên ghen tị. Bằng xúc xắc ma thuật, Duryodhana đã lừa
Yudhisthira kết án Pandavas và vợ của họ ba mươi năm lưu đày. Mặc dù, năm anh em có mâu thuẫn
với nhau, nhưng họ vẫn phải đoàn kết và chuẩn bị cho cuộc chiến. Sau khi quay trở lại, họ khởi xướng
trận chiến Kurukshetra, nguyên nhân gây ra cái chết của trăm người Kauravas và Yudhisthira và lên
làm vua.
75 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

YENNENGA – SIX OF WANDS


Huyền thoại người Mossi, Burkina Faso | Yennenga52 – Burkina Faso53, Mossi54 Legend

Có một nàng công chúa xinh đẹp và mạnh mẽ tên Yennenga.


Cô là con gái của vua Dagomha, Nedega, và sức mạnh của cô
được biết đến ở khắp nơi. Kỹ năng của cô là phóng lao, thương,
cung và tài cữa ngựa vô song. Cô chỉ huy đội quân nhỏ, gồm
duy nhất mười bốn người chiến đấu cho cha cô, với người láng
giềng Malinke. Nhờ kỹ năng tuyệt vời cô trở nên đáng giá
trong bộ tộc, và cha cô vì sợ mất đi con gái mình. Khi cô đến
tuổi cập kê, vua cha từ chối bất kỳ cuộc kết hôn nào cho dù cô
muốn lấy chồng.
Để khiêu khích người cha cô, Yennenga trồng một cánh đồng
lúa mì và chăm sóc nó cao, tươi tốt. Khi đến thời gian thu
hoạch, cô để lúa mì thối trên cánh đồng. Bằng cách đó,
Yennenga bày tỏ thái độ không thoải mái vì chuyện không
được chọn người chồng cho riêng mình. Nhưng nhà vua vẫn
không thay đổi quyết định. Thay vào đó, ông nhốt cô lại, để
ngăn cản chuyện kết hôn.
Nhờ sự giúp đỡ của một người bạn, Yennenga cải trang thành
một nam nhi, trốn khỏi vua cha và cưỡi ngựa đi về phương bắc.
Cô gần như bị bắt bởi Malinke, cuối cùng tìm được một nơi ẩn
náu trong khu rừng. Cô gặp người săn voi Riale, người phát hiện cô đang cải trang. Sau đó, cả hai
yêu nhau và có một đứa con tên Ouedraogo, nghĩa là “ngựa”, loài vật mà Yennenga thường cưỡi.
Vua Nedega không ngừng tìm kiếm người con gái mình. Sau nhiều năm, ông ấy biết được con gái
mình hiện tại đang ở đâu và rất mừng vì cô vẫn còn sống. Ông cử một phái đoàn để đón cô trở về
nhà, và ông còn tổ chức một bữa tiệc lớn để chào đón cô. Yennenga đồng ý, đi cùng Riale, Ouedraogo,
họ được chào đón một cách nồng ấm. Vua Nedega còn thường xuyên giám sát buổi huấn luyện của
cháu trai mình và tặng cho cậu một đám kỵ sĩ, lâu đài và hàng hoá, những thứ mà Ouedraogo mang
về phương bắc để lập nên vương quốc của mình, Tenkodogo trở thành trung tâm của vương quốc
Mossi. Ouedraogo lập nên vương quốc Mossi, và Yennenga là mẹ của người Mossi của Burkina Faso.

52
Yennenga là một công chúa huyền thoại, được coi là mẹ của người Mossi ở Burkina Faso. Cô là một chiến binh nổi
tiếng quý giá cho cha mình. Nhưng công chúa khao khát một số phận khác và quyết định rời khỏi vương quốc.
53
Burkina Faso là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Nó có biên giới với Mali về phía bắc, Niger về phía đông, Bénin về phía
đông nam, Togo và Ghana về phía đông nam, và Bờ Biển Ngà về phía Tây Nam.
54
Mossi là một nhóm dân tộc Gur có nguồn gốc từ Burkina Faso hiện đại, chủ yếu là lưu vực sông Volta. Mossi là nhóm
dân tộc lớn nhất ở Burkina Faso, chiếm hơn 40% dân số, tương đương khoảng 6,2 triệu người.
76 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

JOHN HENRY – SEVEN OF WANDS


Chuyện dân gian Mỹ, Alabama | John Henry55 – Alabama56, American Folk Tale

Một huyền thoại được nhắc đến ở Bắc Mỹ, John Henry. Anh
sinh ra vốn là một nô lệ và được giải thoát trong cuộc Nội
chiến Hoa Kỳ (Civil War). Sau khi được tự do, anh ra ngoài
kiếm tiền và tìm được công việc trong công ty đường ray xe
lửa. Ngành công nghiệp tàu hoả ngày càng hưng thịnh để theo
kịp nhu cầu hiện hành, và công ty đường ray xe lửa ngày càng
nhiều những tuyến đường nối từ đông sang tây. Để phục vụ
công việc đó, một lượng lớn đất đá cần phải dọn sạch, và thậm
trí qua những ngọn đồi phải cắt ngang.
John Henry là một người đàn ông khổng lồ với với khao khát
được làm việc chăm chỉ, bởi vì phong là người thép tự nhiên.
Đôi khi còn được ví là người búa, người mà bình thường sẽ
đóng những chiếc gai thép dày vào đá để tạo thành cái lỗ, sau
đó nhồi thuốc nổ làm nổ tung đất đá. Người búa luôn được hỗ
trợ bởi người làm rung, người sẽ cúi mình bên cái lỗ và quay
mũi nhọn sau mỗi nhát búa. Cho nên họ cùng nhau hoàn thành
hiệu quả công việc rất tốt. John Henry còn vượt xa vậy. Mỗi
búa của anh là mười bốn pounds, và anh có thể làm liên tục
mười đến mười hai tiếng một ngày, nhanh hơn và dài hơn so
với một người bình thường.
Một lần khi công ty đường ray tàu hoả tới một ngọn núi mà họ không thể vượt qua. Họ buộc phải
khoan qua nó với búa và máy khoan của thợ sắt. Đúng lúc đó một nhân viên bán hàng đi ngang qua.
Anh nói rằng công ty đường ray cần một máy khoan năng lượng hơi nước mới giúp họ khoan núi
nhanh và lâu hơn bất kỳ một nhân công nào. Anh ta còn nói thêm với công nghệ đó, công ty sẽ không
cần một nhân công nào và có thể đuổi họ đi.
John Henry từ chối. Để bảo vệ quyền lợi cho công nhân, John Henry chấp nhận thử thách và nâng
một chiếc búa nặng hơn. Cuộc đua bắt đầu. Cả động cơ và con người cùng đấu, và cả hai đều cố đến
mức không thể theo dõi được. Khi cuộc đua kết thúc, trái tim của John Henry vỡ oà vì kiệt sức, nhưng
anh đã thắng: máy móc đào được chín feet, còn anh khoan được mười bốn feet.

55
John Henry là một anh hùng dân gian người Mỹ. Một người Mỹ gốc Phi, anh ta được cho là đã làm việc như một "người
lái xe thép" — một người đàn ông được giao nhiệm vụ đóng một chiếc khoan thép vào đá để tạo lỗ cho thuốc nổ làm nổ
đá trong quá trình xây dựng một đường hầm đường sắt.
56
Alabama là một tiểu bang nằm ở vùng đông nam Hoa Kỳ, giáp với Tennessee về phía bắc, Georgia về phía đông,
Florida và vịnh Mexico về phía nam, và Mississippi về phía tây. Alabama là bang rộng thứ 30 và đông dân thứ 24 của
Hoa Kỳ. Ở đây có một trong những thủy lộ nội địa dài nhất đất nước.
77 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

QUẠ CẦU VỒNG – EIGHT OF WANDS


Huyện thoại người Lenape, Bắc Mỹ | Rainbow Crow – North America, Lenape57 Legend (Disputed)

Khi thế giới còn rất sơ khai, mỗi ngày trôi qua đều rất tuyệt vời
và ấm áp. Nhưng khi mặt đất bắt đầu lạnh giá, và các loài động
vật đón mùa đông đầu tiên. Tuyết bắt đầu rơi, và rơi càng ngày
càng dày cho đến khi các sinh vật cảm thấy sợ hãi. Cuối cùng
một con quạ, vô cùng đẹp, mang màu cầu vồng, tình nguyện
bay thật cao và mang ngọn lửa đầu tiên xuống mặt đất. Sau khi
lấy được ngọn lửa, nó quay lại càng nhanh càng tốt, nhưng đi
mãi vẫn chưa thể xuống mặt đất. Cuối cùng, nó cũng quay lại
với ngọn lửa cứu muôn loài khỏi giá lạnh, nhưng lửa đã thiêu
rụi bộ lông xinh đẹp và lấy đi giọng hót trong trẻo.
Quạ cầu vồng, đã cứu người Lenape, ngoài ra, lại có nhiều biến
thể từ Cherokee, Shoshone, hay Achomawi.
Trong câu chuyện Cherokee, Nhện nước là sinh vật đã cứu
muôn loài khỏi mùa đông giá lạnh. Nó là sinh vật duy nhất có
thể lấy ngọn lửa từ cây sung bị cháy bởi tia sét. Còn đối với
Shoshone, Sói đồng cỏ (Coyote) ăn cắp lửa từ hang của người
lửa. Trong thần thoại Achomawi, Sói đồng cỏ đã hỏi Nhện cái
(Spider Woman) giúp nó nói chuyện với Sói bạc (Sliver Gray
Fox), sinh vật sống trên bầu trời, và thuyết phục nó trả lại hơi
ấm cho mặt đất. Trong thần thoại Nhện cái đã cử hai người con trẻ nhất đặt trên mũi tên bắn bởi
những loài động vật và được nâng lên bởi cơn gió làm từ những bài hát. Sói xám cảm động và tặng
mặt đất hơi ấm, cầu vồng, và sướng sớm cho tất cả mạng nhện.
Cũng có thể Quạ cầu vồng là câu truyện của một bộ tộc khác, có rất ít hoặc không có ghi chép nào về
loài sinh vật này. Bất kể là gì, vị anh hùng mang lửa xua tan giá lạnh tồn tại trong nhiều nền văn hoá
trên thế giới. Mọi người đều mong hơi ấm trong buổi tối giá lạnh.

Lenape, còn được gọi là Leni Lenape, Lenni Lenape và người Del biết, là một người dân bản địa của vùng Đông Bắc
57

Woodlands, sống ở Hoa Kỳ và Canada.


78 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

NGƯỜI ĐẸP VASILISA – NINE OF WANDS


Chuyện cổ tích Nga, Nga | Vasilisa The Beautiful – Russia, Russian Fairy Tale

Một thương nhân và vợ của ông có một cô con gái tên là


Vasilisa xinh đẹp. Khi cô còn bé, mẹ cô mất. Trên giường
bệnh, bà đưa cô một con búp bê bằng gỗ nhỏ và nói hãy cho
con búp bê này ăn uống một chút, nó sẽ giúp cô nguôi ngoai.
Khi mẹ cô chết, cô làm theo lời mẹ dặn và cảm thấy êm dịu
bởi sự hiện diện của con búp bê.
Thời gian qua đi, vị thương nhân lấy một người phụ nữ khác
có hai cô con gái. Bà mẹ kế ghen ghét khi Vasilisa được để ý
bởi một chàng trai trẻ đẹp trai chứ không phải hai đứa con của
bà, nên bà tìm cách tống cổ cô ra khỏi nhà. Khi cha cô đi buôn
bán ở một nơi xa, bà đã mang cả bốn người đến một túp lều u
ám trong khu rừng. Bà muốn nhóm lửa trong nhà liền nhờ
Vasilisa đi xin lửa nhà hàng xóm, Baba Yaga.
Vì có con búp bê đồng hành, Vasilisa đi đến nhà của Baba
Yaga, ngôi nhà có đôi chân gà và xung quanh là hàng rào ở
trên toàn là đầu lâu đang cháy. Sợ hãi, Vasilisa đợi ở bên
ngoài hàng rào, một người cưỡi ngựa lúc trước là ngựa trắng,
sau đó là ngựa đỏ, rồi ngựa đen. Cuối cùng, một bà già yếu ớt
Baba Yaga xuất hiện khi đang cưỡi lên chiếc cối của bà ta.
Baba Yaga đồng ý cho Vasilisa lửa, nhưng cô phải hoàn thành được một số yêu cầu bất khả thi. Nếu
Vasilisa không hoàn thành, cô sẽ bị giết. Vasilisa cảm thấy băn khoăn trước những thứ mà cô sắp
phải làm, cô ấy không thể nhặt hạt hoa anh túc ra khỏi trong đám bụi bẩn, hay ngô đã hỏng ra khỏi
ngô tốt trong một ngày. Nhưng khi gần như hết hy vọng, búp bê nhỏ nói Vasilisa ngủ một giấc, rồi
nó sẽ giúp cô.
Baba Yaga rất ngạc nhiên làm sao Vasilisa có thể hoàn thành những yêu cầu này, cô giải thích mẹ đẻ
của mình đã giúp cô. Tức tối, Baba Yaga nói bà không muốn ban ơn cho bất kỳ ai. Bà đá Vasilisa ra
khỏi ngôi nhà, đuổi cô về nhà cùng với chiếc đầu lâu đang cháy. Khi Vasilisa quay về chiếc lều, cái
đầu lâu thiêu mẹ kế và hai cô chị thành tro.
79 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

CÂY TIMBÓ – TEN OF WANDS


Huyền thoại người Guarani, Paraguay | Timbó Tree – Paraguay, Guarani Legend

Có người đàn ông tên Saguaa là thử lĩnh của một bộ tộc. Anh
có một người con gái mà anh ấy hết mực thương yêu tên
Tacuaree. Hai người họ cũng được bộ lạc yêu mến, và cũng
không lấy làm ngạc nhiên khi Tacuaree có nhiều người đến
ngỏ lời cầu hôn. Nhưng Tacuaree chỉ để ý đến người đàn ông
ở trong bộ lạc khác. Mặc dù phải Saguaa rất buồn khi phải để
người con gái sống xa mình, nhưng anh cũng tôn trọng ước
muốn của cô.
Ngày, tuần, và tháng trôi qua, Saguaa vẫn không nghe tin gì
về người con gái của mình. Anh ấy bắt đầu cảm thấy con mình
gặp nguy hiểm, và đi ra ngoài tìm cô. Anh ấy đến ngôi làng
mà Tacuaree đến nhưng chỉ thấy tàn dư của sự phá huỷ của
một ngôi làng đã phát triển mạnh mẽ. Ngôi làng đã bị tấn
công, và toàn bộ người trong làng đều bị mất tích. Quẫn trí,
Saguaa bắt đầu hành trình tìm kiếm cô con gái của mình.
Con đường trở nên lạnh lẽo. Không có một sự chỉ dẫn, Saguaa
đặt tai mình xuống đất, hy vọng có thể nghe được tiếng dậm
chân hay bất kỳ tiếng động nào. Nhưng anh ấy chẳng nghe
được âm thanh gì cả, anh ấy đứng dậy, tiếp tục đi, và dừng
lại, nghe ngóng. Anhcũng không cần thêm một sự giúp đỡ nào và không ngừng tìm kiếm.
Tháng sau, bộ lạc tìm thấy xác của anh ấy trong tư thế áp tai vào mặt đất nghe ngóng tin tức về cô
con gái. Nhưng điều kỳ lạ đã xảy ra. Một cái cây mọc từ tai của anh ấy. Cái cây vươn mình nở hoa,
kết trái và trái trông giống tai người.
Kể từ ngày đó, cây Timbó là hiện thân của tình yêu bất diệt của người cha cho cô con gái, người luôn
mong ngóng tin tức của con mình.
80 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

MWINDO – PAGE OF WANDS


Thần thoại Nyanga, Congo | Mwingdo – Republic of The Congo, Nyanga Mythology

Rất lâu về trước tại ngôi làng Tunbodo, tộc trưởng độc ác
Shemwindo đe doạ những người vợ của ông chỉ biết sinh con
gái. Sáu người vợ đều sinh bé gái, duy chỉ có người vợ thứ bảy,
Nyamwindo, sinh được người con trai từ đốt ngón tay giữa, tên
Mwindo. Cậu bé sinh ra với gậy phép (flyswatter), phép thuật,
cây rìu (adze-axe), và một cái vật với sợi dây dài bên trong.
Shemwindo thấy điềm không lành liền muốn giết cậu bé bằng
cách nhốt vào cái trống rồi quăng nó xuống sông.
Chiếc trống nổi lên một cách dễ dàng, Mwindo quyết định tận
dụng cơ hội để thăm người cô Iyangura. Hành trình của cậu
gặp nhiều gian nan, có những vị thần ngăn cản con đường của
cậu ấy, nhưng cậu cũng gặp những vị thần giúp đỡ mình. Cậu
bé cuối cùng cũng có sự hết lòng của người cô mình, và cô giúp
cậu bé chiêu mộ những người chú để làm ra bộ giáp ma thuật
giúp cậu ta có thể quay về Tubondo mà thách thức người cha
của mình. Một trận chiến lớn nổ ra, nó chỉ kết thúc khi Mwindo
triệu hồi tia sét từ thần Nkuba để huỷ diệt Tubondo. Cậu bé làm
sống lại ngôi làng bằng chiếc gậy phép, và sớm nhận ra
Shemwindo đã tẩu thoát qua một lỗ bí mật đi vào lòng đất.
Mwindo đuổi theo người cha mình đến bậc cửa của Muisa, thần Chết, và con gái Muisa, Kahindo.
Mwindo kết bạn với Kahindo, và cô giúp cậu đánh bại người cha của cô ấy bằng nhiều mánh khoé,
trong đó là trồng và thu hoạch chuối trong buổi tối để dụ hắn. Nhưng trước khi đánh bại Muisa,
Shemwindo trốn ra khỏi mặt đất và bay vút lên bầu trời. Mwindo theo ông lên trời và cá cược với
thần Trời, Sheburungu nhằm bắt được cha mình. Mwindo cuối cùng chiến thắng và bắt người cha
mình quay trở về mặt đất.
Khi trở lại Tubondo, Mwindo cho xây lại ngôi làng và kết hôn. Cậu cho dựng nên ba ngai vàng bằng
đồng, một cái nổi cách 10 feet so với mặt đất. Cô của cậu ngồi bên phải, như một người khuyên bảo;
cha của cậu ta ngồi bên trái, một kể tội đồ câm lặng, và Mwindo ngồi ở giữa, một vị vua thông minh
và quyền lực.
81 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

TATTERHOOD – KNIGHT OF WANDS


Chuyện cổ tích Na Uy, Na Uy | Tatterhood – Norway, Norwegian Fairy Tale

Có một nữ hoàng mong muốn có con nhưng không bao giờ


được phù hộ. Cuối cùng bà ta gặp một người phụ nữ xin ăn,
người bảo nữ hoàng đổ nước tắm lên giường của nữ hoàng.
Vào một buổi sáng, nữ hoàng thấy hai bông hoa mọc ở đó.
Người ăn xin nhắc nữ hoàng chỉ ăn bông hoa đẹp nhất. Nhưng
nữ hoàng thấy bông hoa đẹp rất ngon nên ăn luôn cả bông hoa
xấu còn lại. Chín tháng sau, một đứa bé gái xấu xí và hoang
dại được sinh ra mặc một chiếc áo choàng rách nát, cưới một
con dê, và cầm một chiếc thìa gỗ, sinh sau đó là một cô bé
xinh đẹp và đáng yêu.
Nữ hoàng hoảng sợ đứa bé gớm ghiếc, tên Tatterhood, nhưng
lại yêu chiều đứa còn lại. Cả gia đình sống với nhau hạnh phúc
cho đến khi một kẻ phá hoạ đến tấn công vương quốc.
Tatterhood bảo gia đình mình ở bên trong để cô giải quyết kẻ
phá hoại. Cô cưỡi con dê và đánh hắn trong tiếng ồn ào của
thìa gỗ cùng với tiếng hút hét sợ hãi. Tiếng động bên ngoài
làm cô con gái xinh đẹp thò đầu xem chuyện gì đang xảy ra.
Nhanh như chớp, kẻ phá hoại, giật đầu cô bé và đặt đầu một
con bê thế vào khi tháo chạy.
Tatterhood tóm lấy cô em và theo hắn ra tận biển. Khi đến nhà hắn, Tatterhood đánh tất cả bọn chúng
và lấy lại đầu cô em. Sau khi đổi lại đầu về lại như cũ, Tatterhood cùng cô em gái đến vương quốc
láng giềng, cô ấy cầu nhà vua đến diện kiến cô. Vị vua tò mò đi qua đám hỗn loạn và ngay lập tức
yêu cô em xinh đẹp. Hai chị em thống nhất cô em sẽ được lấy nhà vua nếu cô chị xấu xí lấy hoàng
tử. Hoàng tử không đồng ý điều kiện đó, nhưng nhà vua ép buộc chàng phải kết hôn với Tatterhood.
Trong lễ cưới, Tatterhood nói với hoàng tử của mình về chiếc áo choàng rách nát, cái thìa và con dê
xù xì của mình. Sau đó, chúng biến thành một chiếc áo choàng xinh đẹp, một vương trượng, và một
con ngựa quý tộc, Tatterhood xấu xí biến thành một nàng công chúa xinh đẹp. Họ sống với nhau rất
hạnh phúc.
82 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

PELE – QUEEN OF WANDS


Thần thánh người Hawaii, Hawaii | Pele – Hawaii, Hawaiian Deity

Có rất nhiều vị thần linh trên đảo Haiwai’i, một trong số đó là


thần núi lửa Pele. Pele được sinh bởi vị thần đất sinh nở,
Haumea, và thần hung dữ Ku-waha-ilo. Ban đầu cuộc sống của
cô ấy rất yên bình với anh chị em của mình, nhưng khi không
còn bình yên nữa. Cô ấy dùng pa’oa, một chiếc gậy dài để xới
đất, lật đất và tạo ra dung nham. Dung nham mang đến màu
mỡ cho sự sống, nhưng cũng mang đến lửa và sự chết chóc.
Cô chị, Na-maka-o-ka-hai, là thần Biển, nhận thấy sự cạnh
tranh gay gắt với Pele và sợ thần Lửa sẽ đốt nhà của họ.
Cho nên Na-maka-o-ka-hai đưa Pele rời khỏi ngôi nhà nhờ
dòng nước lũ. Pele mang theo anh chị em của mình lên chiếc
xuồng Honuaiakea và đi đến một vùng đất mới. Họ cùng nhau
di chuyển và cuối cùng đặt chân đến quần đảo Hawai’i. Trên
mỗi đảo nhỏ lại có một vài anh chị em sinh sống, là những vị
thần khác nhau: gió, lửa, đại dương, và mây, lần lượt xuống
tàu và tạo dựng ngồi nhà cho riêng mình. Nhưng Na-maka-o-
ka-hai đẩy Pele đến hòn đảo to nhất, nơi mà cô cư trú đến ngày
nay, gọi là núi lửa Kilauea.
Nhưng Pele không chấp nhận cuộc sống bình lặng. Cô là vị
thần quyền lực, đam mê, dễ bị ghen tuông và tính khí thất thường. Cô có nhiều người tình và họ
không bao giờ từ chối cô. Có lần, cô yêu chàng chiến binh điển trai Ohia, nhưng chàng lại yêu và kết
hôn với Lehua xinh đẹp. Giận dữ, Pele biến Ohia thành một cây xoắn. Trái tim Lehua tan vỡ làm thần
linh cảm động và biến cô thành những bông hoa nở trên cái cây đó để hai người mãi mãi bên nhau.
Cho đến ngày nay, cây Ohia và hoa Lehua là thứ mọc lên đầu tiên khi dung nham xoá sạch vùng đất.
83 | B ê n D ư ớ i Á n h T r ă n g | E d d y . B e l l a . T a r o t

PHƯỢNG HOÀNG – KING OF WANDS


Thần thoại Đông Á, Đông Á | The Phoenix – East Asia, East Asian Mythology

Phượng hoàng là loài chim lửa ma thuật với quan niệm về sức
mạnh, huỷ diệt, và tái sinh. Câu chuyện về phượng hoàng tồn
tại trong nhiều nền văn hoá khác nhau và nhiều tên gọi khác
nhau, nhưng đều là chú chim lửa và mang lại may mắn.
Một trong những truyện nổi tiếng xuất phát từ Hy Lạp. Có
một loài chim bất khả chiến bại bay giữa mặt đất và mặt trời,
chốn phàm và thần linh. Mỗi một ngàn năm nó bắt đầu già đi
và chết. Đó là khi nó làm tổ bằng nhựa cây mật nhi lạp và quế
rồi tự mình thiêu dụi. Từ đống tro tàn, một quả trứng nở ra
một con phượng hoàng mới.
Ngoài ra, có nhiều câu truyện của người Slavi58 về phượng
hoàng và bộ lông tuyệt đẹp của nó. Chiếc lông đuôi dài được
lưu truyền đến tai nhiều vị anh hùng, vua, kể cả Ivan Tsarevih
và tên phù thuỷ độc ác Kaschei bất tử. Chiếc lông vẫn còn giữ
sức mạnh ngay cả khi chúng rụng ra từ người con chim và
mang lại may mắn – cũng như sức mạnh huỷ diệt – cho bất
kỳ ai có chúng. Phượng hoàng bay quanh thế giới, những viên
ngọc rơi từ mỏ của nó mang đến sự bất hạnh.
Ở Nhật, phượng hoàng còn được gọi là Ho-ho, nó là chim trời
hạ xuống bầu trời để chúc phúc cho những vị vua đức hạnh và khởi đầu cho vùng đất mới. Nó bay
quay bầu trời mang đến những điều tốt đẹp. Nó có thể tìm thấy khi đang đậu trên đỉnh Torii, các cổng
vào đền thờ Thần đạo tôn giáo linh thiêng hoặc ranh giới thế giới thần linh và phàm trần. Loài chim
kỳ diệu này là sứ giả cho sự cân bằng và bình yêu, và sự xuất hiện của nó quay về thiên đường là thời
điểm của sự bất hoà và huỷ diệt.
Zhu Que, Chu Tước (Vermilion Bird), là tên của phượng hoàng ở Trung Quốc. Nó là một trong bốn
chòm sao đại diện cho bốn hướng. Nó chỉ phương bắc và gắn liền với mùa hè.

58
Người Slav là một nhóm chủng tộc tại khu vực Ấn Âu với ngôn ngữ cùng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Slav. Đây là một
nhánh của các dân tộc Ấn-Âu và sống chủ yếu tại khu vực châu Âu, chiếm khoảng một phần ba dân số khu vực này.

You might also like